Header Ads

KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – (Từ quyển 21 đến hết)

KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – (Từ quyển 21 đến hết)



LUẬN CHỦ KHÁCH:
Thái công nói:Chủ và Khách động tĩnh không định, biến hóa khôn lường, cho nên Chủ và Khách là tượng không định. Hoặc lấy động trước là khách, động sau là chủ hoặc lấy động là khách, lấy tĩnh là chủ. Hoặc lấy nói trước là Khách. Hoặc lấy thiên bàn là khách, địa bàn là chủ: mọi việc đều có dùng để quyết thành bại thắng phụ, đều quy ở nơi chủ đãi khách nơi khẩn yếu vậy.
Như xuất binh động chúng, lấy ta là Khách, đất nơi đến kia là Chủ. Hoặc lấy tổ giặc và thành quách giặc xâm chiếm là Chủ. Hoặc lấy Dương là Khách, Âm là Chủ. Hoặc lấy phản khách làm chủ ,phản Chủ làm Khách.
Ví như tuyển tướng, cầu hiền, chiêu binh, sắm ngựa, tìm yết, hỏi bạn, các loại ấy thì ta là Khách, còn người là Chủ.
Như có người đến cầu ta hoặc biết ta mà ta chưa biết, như thế thì họ là Khách mà ta là Chủ.
Như ở trước trận hay không ở trước trận ấy cũng phải chia ra Chủ và Khách. Hoặc lúc này giao phong, nếu lợi khách thì trước nên diễu võ giương oai, bắn súng reo hò. Nếu thấy lợi Chủ thì nên ngả cờ im trống, cấm nói, mai phục để giữ phần thắng
Khi phát binh nên xem cờ giặc xa gần. Như lúc phát binh giao chiến hoặc lúc không động giao phong, không được lấy trước động là Khách. Đợi lâm địch, lấy chủ khách tới thời mà dùng mới được. Như lúc này, chủ khách đều không lợi:chỉ nên cố giữ. Nếu có cấp bách, hoặc bị vây khốn nên lấy kế thắng hoặc vận trú bế lục mậu hoặc cưỡi thiên mã hoặc thư phù niệm chú, các thứ ấy đều được cả. Nư việc Nước, Đô, Tỉnh, Phủ, Huyện, Bang, các việc gia trạch, quan tụng, mồ mả, cầu mưu, danh lợi, hôn nhân, người đi ngoài xa, mátmát, đuổi bắt...thì lấy Địa bàn là Chủ nhân. Thiên bàn là Khách nhân. Việc nhiều không kể xiết. Đại để Các sao thiên bàn sinh hợp địa bàn là nhất. Địa bàn sinh hợp thiên bàn là thứ. Như khách sinh chủ thì xứng ý toại lòng, nhiều mỹ mãn, nhiều tiện ích. Chủ sinh khách thì hao tán, chậm trễ. Chủ khách đều hoà thì việc làm đều toại ý. Chủ khắc khách thì nửa thực nửa hư, tự bại tự hòa, không có kết quả. Khách khắc chủ thì chiến bại kết quả không thành, cầu cát được hung. Nếu thạo dùng Kỳ Môn, thì trước chia chủ khách, sau mới xem phép. Như lúc ấy mà lợi chủ thì ta là chủ. Lúc ấy lợi khách thì ta là khách. Hoặc lấy tiến là Khách, không tiến là Chủ tất cả tại ở lòng ta, khg thể chấp nhất là khách, làchủ, tại ở ta vậy.
Tổng pháp thiên cơ – tiền biên
Khi bố diễn Kỳ môn, trước xem tượng trời, sau xét tới nhỏ nhặt, đều ở lòng ta biết dung, không thể không biết thế.
Như Thiên bàn, chín tính, Kỳ Nghi, tám môn thuộc kim, trên địa bàn cát tinh là trên mộc, thế là Khách Kim đến thương Chủ Mộc. Chiến thì lợi bên Khách. Hành binh thì cử trước, bắn sung reo hò, sĩ tốt tinh cường, trăm chiến trăm thắng. Các việc như cầu mưu, xin yết, giao dịch thì phá bại lo kinh. Bên Khách ám muội, gặp quân trộm cắp tiểu nhân, duy xem người đi xa về.
Nếu Kim Vượng, Mộc suy thì hung lại càng quá.
Như Thiên bàn Kim tinh gặp thời suy Mộ Tử Tuyệt mà trên Mộc thì Kim không có Khí, không khắc được Mộc. Nếu Mộc được thời Sinh, Vượng thì Mộc tinh là cát. Như Mộc cũng gặp thời Suy Mộ Tuyệt thì không khỏi được hung.
Như Thiên bàn Mộc tinh, trên địa bàn Hỏa tinh. Trên là Mộc có thể sinh Hỏa, chiến lợi bên Chủ. Mọi việc mưu làm đều được như ý. Như có trung Mộc, tới cung Sinh Vượng gọi là Mộc tham sinh ép Hỏa là Hỏa không sáng. Hỏa dần tự tắt. Nếu Mộc tới cung thoát khí, hoặc Mộc nhiều mà nhiều là khô mộc thì sinh Hỏa, đại lợi chủ binh.
Như Thiên bàn Thổ, trên địa bàn Kim, đó là Khách đến sinh Chủ. Nếu là thổ vượng, hoặc có trùng Thổ, tuy gọi sinh Kim, mà Thổ trùng chôn Kim, tất có binh ngầm mai phục, hoặc anh hung thất chí, hoặc trung liệt chịu khuất.
Như Thiên bàn Mộc trên địa bàn Kim là Chủ thương Khách, nên ngả cờ lau trống, cấm nói mà nghênh địch thì đại thắng. Nếu có mưu làm thì việc nhiều phá bại, có thủy không có chung. Duy có cầu danh thì hiển đạt. Việc quan được mất, xuất hành cát.
Như Thiên bàn Kim, trên địa bàn Thổ là Chủ sinh Khách, nên diễu võ dương oai, toàn tuần chính ca khúc khải hoàn, binh Khách đại thắng. Các việc mưu làm trước sau đều hao, vất vả, khó nhọc, sau mới được an.
Tác dụng diệu pháp -hậu biên
Phép diệu dụng, toàn ở 4 thiên can của năm tháng ngày giờ bay trên 9 cung, hợp thành cát hung mọi cách, thì biết được vua thánh tôi hiền, con hiền cháu thảo, cha mẹ, vợ thiếp, đày tớ, hàng xóm, mọi việc thành bại có thể suy rõ. Can năm là vua, là cha mẹ. Can tháng là tôi, là tể tướng, là chú bác. Can ngày là anh em bè bạn. Can giờ là vợ thiếp, con cái, sĩ tốt, tôi tớ.
+ Như thiên bàn can năm hợp thành cách cát, môn sinh cung, hay trên dưới hợp nhau thì chủ về nước thái dân yên, vua tôi cha mẹ, phúc thọ khang ninh.
-Ví can năm hợp thành cách hung hay bị xung khắc thì chủ về 4 bề binh lửa, trong lòng không yên, ruột thịt hình thương, tai ách lo hoảng,
+ Can tháng được thiên bàn cùng sinh, hay hợp thành cách cát thì có tôi trung, sĩ liệt, giúp nước yên dân, lên quan, phong tước muôn việc vừa long.
- Nếu hợp thành cách hung, lại bị khắc chế thì có tôi gian chuyên quyền, quan hưu chức bãi, lục thân chia lìa, nghèo đói lang thang.
+Ví can ngày được thiên bàn, 8 môn sinh hợp cách cát, thì chủ anh em hòa mục, quý hỉ tới cửa, thân yêu bạn giúp, mưu cầu như ý.
- Nếu bị khắc hay hợp thành cách hung thì chủ anh em hình thương, lục thân không hợp, thân khốn, chiêu tai nạn.
+ Ví can giờ được thiên bàn sinh hợp thành cách cát thì chủ vợ hiền, sĩ tốt tinh cường, tôi tớ đắc lực.
- Nếu gặp cách hung hay bị xung khắc thì chủ con cái bị hình thương, cha mẹ bất hòa, binh tốt tự loạn, đầy tớ dối chủ.
Khi sáu Canh trên can Năm tháng ngày giờ hay Can Năm tháng ngày giờ bay trên sáu Canh, thì xem sáu Canh trên can thuộc người ở thứ bậc nào, thì biết cát hung thuộc người ấy. Cách cát thì càng cát, cách hung thì càng hung. Anh em không hòa, gia đình nguy khốn.
Nếu xem, can năm, can tháng, can giờ phải xem riêng, không thể lấy 1 dây làm chuẩn, e rằng cát hung không nghiệm.
Lâm cơ ứng dụng
Người là linh của muôn vật, cảm thông mọi sự ứng nghiệm. Ở ta, có lúc động lúc tĩnh, lấy khí vật của người, của việc mà suy ra. Nhà binh được thua, người đời còn mất, vật thành hay bại, đến như xuất xứ (ra quân), hoặc là động chúng (lấy linh), phát ngựa lập doanh, hoặc là việc người được mất, ly hợp, hoặc khí vật (đồ dùng) mà được. Lấy ngày giờ làm đầu. Tìm ngày tra toán. Lợi vào ngày giờ nào mà giao phong được thắng, ngày giờ nào thì bại đến. Phương nào, ngày giờ nào mai phục ở nơi nào. Ngày giờ nào thành công khải hoàn.
Như muốn biết người thọ yểu cùng thông, thì lấy bản mệnh Năm tháng Ngày Giờ điền bổ thì vợ tiền con lộc có thể biết được.
Vật mà phá tổn thành bại, dài lâu hay tạm bợ, lấy ngày giờ được thấy, hoặc ngày giờ phương thấy. Cho đến vật dài ngắn, vuông tròn, hoặc năm hành thuộc phối hợp với độn giáp thì vật khí phá tổn bị ích có thể dự đoán biết.
Như trong quân doanh, cứ có một thấy một nghe hoặc gặp rời đổi, lịch ngay, ơi rụng, trống chiêng các việc, hoặc nghe lời nói thiện ác hoặc thấy cơ trống rách tổn, hoặc chim thú từ phương nào lại, cho đến một thấy một nghe việc quái lạ, đều có thể cho là triệu cát điềm hung.
Hoặc nghe tiếng người nói, bao nhiêu tiếng, bao nhiêu chữ, hoặc chiêng trống có lúc khua loạn nhiều tiếng, hoặc nhạc khí có lúc xa gần vọng lên mấy tiếng, mọi sự vật, một khi mắt trông thấy đều có thể lấy xem. Ứng ở lòng ta, một động phát ra mà biến thong. Chớ có đã xem một lần, lại xem lần thứ hai, đến nỗi cát hung không lấy đâu mà định được. Như đã lấy, mà cát hung không chuẩn, lại lấy một vật khác để xem thì cũng lại không chuẩn. Đó là tâm chưa định được cho nên cát hung không nghiệm.
Như gặp một chữ, một điểm, một vật, một tiếng, một người, một thứ….tức là giờ Tý. 2 là sửu. 3 dần. Như ngày giáp Tý là động lúc giừo Giáp Tý. Nếu số đến 13 thì tức là vòng thứ nhì và là giờ Bính tý. Nếu sô đếm mà nhiều, đều gặp giờ tý, tức là vòng thứ 3, vòng thứ 4, vòng thứ 5. Mậu Tý, Canh tý, Nhâm tý. Số mà nhiều quá 5 vòng thì là Ất Sửu, Đinh Sửu, Kỷ Sửu, Tân Sửu, Quý Sửu. Ngàn giờ, vạn giờ đều theo lệ này.
Ví có xuât sứ, nên rõ bản mệnh của quan tỉnh quận và đầu mục lớn nhỏ, thiên tử, hợp thành các cách cát hung, hoặc có thể đi chinh phục, hoặc lợi ở mai phục, hoặc lợi ở xung phong, hoặc lợi cho tiếp ứng, nhìn gần cả mọi người ấy, người nào lợi cho việc làm này, châm trước mà làm thì ba quân lớn mạnh đều không lầm vậy.
Phú: Độn giáp thần cơ
-Lưỡng nghi chủ sử,
Tam tài đã chín.
-Bộ chú hà sai thần quỷ,
Cục thành diệu chỉ thông tri.
-Trước lấy linh văn sách gián,
Chú kinh chỉnh đốn lẽ vi.
-Như khi: Giáp trên Bính, Long hồi thủ đó,
Bính trên giáp, Điểu điệt huyệt vì.
-Hồi thủ thì vui mừng xứng ý,
Điệt huyệt thì hiến bước dễ khi.
-Thân tàn hủy vì Ất trên Tân, Long đào tẩu cách,
Tiền hư hao vì tân trên Ất, Hổ xướng cuồng ghi.
-Quý trên Đinh, Đằng xà yêu kiều, hung đó,
Đinh trên Quý, Chu tước đầu giang, nhiều nguy.
-Sinh lâm Bính Mậu, Thiên độn, dụng binh hay biết mấy,
Ất trên Kỷ đây, Địa độn, yên doanh vững quách trì.
-Canh trên Can ngày là Can phục (Phục can Cách),
Can ngày trên Canh, là Can phi (Phi can cách).
-Trực phù trên Canh, Phục cung cách,
Canh trên Trực phù, Phi cung suy.
-Đại cách khi Canh trên sáu Quý,
Hình cách, Canh trên sáu Kỷ tùy.
-Án trên đây đều là cách xấu,
Muôn công, mưu sự có ra chi.
-Ngũ bất ngộ, Can Nhật khắc Thời, tai hại đến,
Bột nghịch danh, Kỳ Bính trên giờ, họa sở quy.
-Lục nghi kích hình, trăm hung tụ đến,
Tam kỳ đắc sử, mọi thiện quy về.
-Thái Bạch nhập huỳnh, lo khi giặc tới,
Hỏa nhập Kim hương, giặc dữ đã đi.
-Địa la già tề, gặp cách ấy thì đừng có tiến,
Thiên cương tứ trương, gặp bước này hết lời….
-Trực phù cung cùng Thiên ất vi, thì nên giữ,
Như khi cấp nạn, theo trực phù phương mà đi.
-Hai chí thuận nghịch,
Diệu lý huyền vi.
-Dương phù, bên tả là tiến số,
Âm phù, bên hữu là trước ghi.
-Dương chí từ Đông chí, mặt trước là mười hai khí, Trực phù sau một là cửu thiên cung, sau hai là Cửu địa xứ, trước ba là Lục hợp thần, trước hai là Thái âm vị. Âm chí từ Hạ chí, mặt trước có mười hai khí. Trực phù trước một là Cửu thiên xứ, trước hai là Cửu địa cung, trước năm là Lục hợp thần, trước bảy Thái âm thân tùy.
-Thái âm lặn hình mà ẩn giấu,
Lục hợp ẩn thân mà mưu nghi.
-Nơi Cửu thiên nên dương vũ lực,
Dưới Cửu địa có giấu binh uy.
-Thiên Địa thực là khó lượng,
Thần cơ diệu pháp nam truy.
-Học giả muốn khi mưu việc,
Hãy đọc phú này mà suy.
Sách này gọi là Phép Tuyển trạch tam bách, được lấy ra từ Kinh “Đô Thiên hám Long”, 81 luận.
Thái ất Tử vi Cửu tổng bát quái, đó là cốt tủy của trời đất, thần cơ của Tinh đẩu. Tám quái năm biến, kịp tới vô cùng. Năm hành suy đi, ứng ra vô tận. Lấy chín tinh mà suy ra chín Tổng. Lấy 8 môn mà ra tám quái. Trên có thể bổ vào chỗ hóa không toàn của Thiên Địa. Dưới có thể giúp vào công không tới của Mậu thổ. Phù trợ nguy cát, phát mối nảy ngành. Không chỉ có 12 phận tinh đồ, mà còn phối 28 tú cách cục. Cho nên sách này làm ngay chính lại kỷ cương của Trời Đất, làm tỏ rõ ra kinh vỹ của âm dương. U thâm thuận ẩn, hiển đạt nghịch huyền. Thử xem 8 quái môn đình, phối với 9 cung hướng tốt. Suy rời sáu Giáp, khu sử sáu nghi. Vận cục Thiên ất trực phù tinh, chỉ huy Thái ất Trực nhật xứ. Cơ lấy sáu nghi, Ngẫu lấy tám tiết. Trên dưới vời giao, trong ngoài ứng biểu. ba bàn vận cục, 8 quái đều thong. Gặp được cát thì muôn sự đều nên làm. Gặp phải hung thì một phân chớ động đến. Một đó là cả bầu trời 8 quái. Hai đó là vào đất ba nguyên. Ba đó là hành quân ba kỳ. Bốn đó là Tuyển trạch tam bách. Năm đó là độn hình sách Thái bạch. Sáu đó là vào núi lay rồng. Bảy đó là chuyển núi rời biển. 9 chữ kinh nguyên. Tám đó là dựng nước yên dân, muôn năm kinh vàng sáng tỏ. Chín đó là ích cho 9 cung, vào phúc cứu nghèo, sinh tiên sản thánh, biến họa phúc như trở bàn tay. Khiến giàu nghèo tự như quen thói. Ví ba vòng đều gặp kỳ môn thì như rồng giao gặp mây mưa. Thấy Lục hợp mà được cách cục thì như Hổ lang mọc thêm vây cánh. Kỵ thấy hưu tù, phòng khi hình kích. Ví thấy môn kỳ chưa đến, tất nên mở cửa về phương cát thì mọi việc đều nên., môn môn đều cát. Chỉ câu hợp được thức cần, còn phải đem giờ luận xét. Thân Can khôn gtù, Thần chi không khắc, thần che sát lặn (Thần tàng sát một), mới hay muôn việc đều hòa, phản ngâm phục ngâm, định thấy ngàn ương lẩn quất. Kỳ gặp vượng tướng, có thể mưu cho phú quý. Môn gặp Khai Hưu, mới thấy anh hùng ứng vận. Thanh long phản thủ, mới hay nét diệu của Giáp Ất được gặp, bạch hổ xướng cuồng, thấy hung họa của Canh Tân. Nếu gặp Đằng xà yêu kiều, biết điểm chênh vênh của nhâm Quý. Nếu gặp Chu tước đầu giang, thấy được điểm Yêu quái của Bính Đinh.
Phi điểu điệt huyệt, khiến cho trăm việc đều lành, Quý nhân đăng đàn, nắm giữ chín cung đều tốt. Thông huyền cơ mà Trời Đất đều chuyển. Biết diệu dụng mà việc động đều hanh.
Nếu là quan liêu văn võ, nên cho biết chức ngôi hàng thứ. Hoặc là dân lành trò nghèo, đắp mộ phù nguy, tác phú, dựng châu phủ mà yên dân vật thái. Hưng huyện trần mà giấu dư thuế bình. Lập cung thất mà phúc gom người tựa. Làm miếu vũ mà quỷ yên thần thỏa. Cầu quán thuyền ngựa, giếng bếp, đường đi, hoặc các việc làm khác, trong tuyển trạch hiểu đủ. Hoặc có Thái ất tướng quân, đều bày cả đấy, thì 9 lương 7 sát, chẳng dám đương đầu.
Không hỏi vận khí mọi nhà, không siêu(vượt), không khai (mở) phạm phải Không vong cấm sát, mà được cục này, cần phải có Kỳ, mới có thể giữ được ngàn năm, đều vời được trăm phúc. Rất nên động thổ, phá núi, chôn tòng táng tổ. Cầu có Sao Kỳ (Kỳ tinh) đến tòa, môn hộ được khai. Có Long Sơn, tất câu thành Long phản thủ. Có Bạch hổ, tất kỵ Bạch hổ xướng cuồng. Có huyền vũ, nên xa Đằng xà yêu kiều. Có Chu tước, hãy sợ Chu tước đầu giang. Còn như tới lánh, dụng ý phối cầu.
Gặp Phi điểu huyệt, tất có chim lạ điêu lẻ, chim màu sa cánh, chim ưng xúm xít, bỏ rơi chim lạc, hạc cò về với cá lươn, tiền bạc tới kêu, loan bay xúm đậu.
Bốn Trọng đều toàn thì cát. Hai đầu phá hoại thì hung, Quý nhân đăng đàn tất có cờ phướn đưa rước, sấm chớp gió mây, ẩn biến văn thư, chuông vàng thao tía.
Gặp ngày giờ Thanh long phản thủ phải có lân chầu, cá vàng ngoài hang, rắn bay hóa trai, ngựa lồng, sấm vang, lóng lánh bạc vàng, cờ hoa nhuộm sắc, đến ứng giờ ấy, trợ thêm cát, đều có khắc ứng. Hợp với đầu núi, muôn không mất một. Động thì có cát thập toàn. Phân ra đầu mối, chia ra đề cương, bầy ra ngàn mối, thuật rõ nét sâu sa, không phải mưu mẹo mà gặp cát, mà là Trời Đất gieo lành, giúp nước yên bang, tế đãi lợi vật.
Chính, siêu, nhuận, tiếp ca
Giáp Kỷ gặp Trọng là Thượng nguyên,
Gặp Mạnh là Trung, Quý hạ miền. (1)
Năm ngày một nguyên, hai độn trải,
Mười giờ một giáp chuyển cho quen.
Âm Dương hai độn từ hồng tạo,
Tiết Khí chưa về, Phù đã đến.
Giờ chậm, tiết giao, Kỳ chưa tới,
Siêu thần, Tiếp khí thông ảo huyền. (2)
Bốn Trọng chưa về, Tiết đã đến,
Trực phù bản cục vẫn dùng liền.
Tuy nhiên tiết mới về giao khí,
Làm sao bốn trọng đến ngày bên.
Bốn Trọng đến trước, Tiết chưa đến, (3)
Dùng Siêu vào Tiết khí sau liền.
Có khí Siêu quá tuần dư đó,
Đặt thêm cục nhuận để lấp chèn.
Nhuận này phải đặt trước hai đến, (4)
Là khi ngày tích mãi mà nên.
Dương cực, Âm cùng, no đã hết,
Nhân đặt nhuận này khí mới lên.
1.Ngày Giáp Kỷ mà gặp Tý Ngọ Mão Dậu là 4 Trọng, là Thượng nguyên. Gặp 4 Mạnh: Dần Thân Tị Hợi là Trung nguyên. Gặp 4 Quý: Thìn Tuất Sửu Mùi là Hạ nguyên.
2.Ba nguyên có 15 ngày chẵn. Mỗi khí Tiết phần nhiều có trên 15 ngày. Phần dư này làm cho ngày Giáp Kỷ không đến đến vào ngày đổi khí tiết. Phần dư hãy quên đi, cứ dung ngày Giáp Kỷ trong số 15 ngày chẵn mà Tuần tự tính độn. Khi nào, trước Đông chí hay trước Hạ chí, mà số ngày Giáp Kỷ đến trước khí trên 1 tuần tức trên 10 ngày thì đặt một khí nhuận.
3.Bốn Trọng đã đến, mà khí tiết chưa đến. Trường hợp này dùng Siêu thần, nghĩa tuy biết chưa đến mà vẫn độn coi như tiết đến đúng ngày Trọng.
4.Đặt nhuận, chỉ có thể đặt nhuận khí Đại tuyết (trước Đông chí) hay nhuận khí Mang chủng (trước hạ chí) là lúc dương cực âm cùng.
9 độn ca
Kỳ môn chín độn ít ai hay,
Bí bởi tiên kinh huyền ảo thay.
1/Bính hợp Sinh môn, trên Đinh thấy,
Thiên độn, trăng soi sáng tựa ngày.
2/Ất hợp cửa Khai, trên sáu Kỷ,
Địa độn, tinh Nhật che chở hay.
3/Đinh với Hưu môn, Thái âm nữa,
Nhân độn tinh sao chiếu mặt mày.
4/Bính hợp Sinh môn, Cửu Thiên chiếu,
Thần linh (Thần độn) che chở quyền trong tay.
5/Đinh hợp Hưu môn, thêm Cửu địa,
Phục binh, Quỷ độn, lánh cho may.
6/Ất hợp Hưu môn trên nước Khảm,
Giao long (Long độn)vùng vẫy giữa mưa mây.
7/Tân với cửa Sinh trên đất Cấn,
Mãnh hổ (Hổ độn) vào lan vũ lộng oai.
8/Hổ cuồng (Tân trên Ất) mà gặp Đinh Cảnh chế,
Sinh Phong (Phong độn), thượng tướng nển dàn bầy.
9/Long đào (Ất trên Tân) cùng với Đinh và Cảnh,
Vọt qua cửa sấm, thét mây (vân độn) bay.
Thiên độn
Kỳ Bính, cửa Sinh, dưới hợp sáu Đinh, không phạm Kỳ gặp Mộ Hình là được Tinh Nguyệt che trở, trong ứng vào Tâm, ngoài chủ vào Thân. Khí ấy thăng lên trên đẩu, chất ấy chú vào Tâm, tên gọi Nguyên châu. Có thể nghe mà làm việc. Lên trời, lúc có việc, gọi thần Ngọc nữ tên là Đinh Mão thì Thần Mão ấy phù hộ.
Chú rằng: “Hỡi thần Đinh Mão Ngọc nữ, giúp ta, đỡ ta, không để cho Quỷ thương ta. Ngó ta thì mù, ác với ta phải chịu tai ương”.
(Đinh Mão Ngọc nữ, hộ ngã hựu ngã, vô linh hữu quỷ thương ngã. Thị ngã giả cổ, ác ngã giả phản thụ kỳ ương).
Chú xong đi thẳng, chớ có ngoái cổ lại.
Phương này có thể sánh với quyền vị bậc vương hầu, lợi cho triều đình. Quân vương tạ trời. Lễ cầu phúc và lợi cho chính chiến, khiến địch tự phục. Dâng thư hiến kế sách, cầu quan, tiến chức. Tu thân, ẩn tích, phạt ác trừ hung. Mua bán xuất hành, trăm việc đều cát. Hôn nhân, đến ở, đi lại phương này đại cát.
Địa độn
Kỳ Ất, cửa Khai, dưới là sáu Kỷ, được tinh Nhật che chở. Khí ấy vàng. Trong ứng với Tỳ. Ngoài ứng vào hình. Gặp việc gọi lên ứng dụng. Còn tên là Hoàng bà Kim công. Có thể làm được là ở các tiên Nam cung. Khi có việc thì hô Ngọc nữ bản cục, y phép trên mà chú, liền được giúp đỡ. Ra nơi Tử đình, che Kỷ làm Địa hộ. Được tinh Nhật che. Phương ấy có thể giấu binh, nép tướng, đóng trại yên doanh. Dựng phủ làm lâm, đắp vây xây tường, yên mộ khai mỏ, tu tạo cầu tiên. Trốn lẩn, biệt kích, xuất trận công thành, toàn quân thắng lớn. Trăm việc đều cát.
Nhân độn
Kỳ Đinh hợp cửa Hưu, dưới là vị Thái âm, là được tinh sao che trở. Khí này xanh đen. Trong ứng với Thận, ngoài ứng với tai mắt, tên gọi Hoàn Dương Đan. Làm ra thì lưu đời dài năm. Có việc ra ngoài, hô thần Ngọc nữ của bản tuần, như phép trên mà chú.
Phương ấy có thể cầu người hiền, chọn tướng mãnh, thuyết địch, hòa cừu, ba năm đều cát. Lại nên mưu kết, hôn nhân thêm người, hòa hợp giao dịch, lợi chợ gấp mười. Nếu phục binh, hiến kế sách, dâng thư, đều đại cát.
Thần độn
Kỳ Bính, cửa Sinh, dưới là vị của Cửu thiên, là được thần linh che trở.
Phương ấy nên tế thần minh, dùng thuật thánh, vạch đất đặt trù, bước giẫm cương, tạo đàn tràng, chạm khắc quỷ thần, thu quỷ mỵ, tự có uy phục. Lại lợi công hư, giấu của, âm mưu, kế mật, rất là huyền diệu. Mở đường lấp sông, tu sửa thần tượng, bồi đắp nét thần để đợi thần ứng.
Quỷ độn
Kỳ Đinh, cửa Hưu, dưới là vị của Cửu địa, là được Quỷ thần che chở.
Phương ấy có thể thám thính cơ mưu, cướp doanh trại, đặt phục công hư, nhòm mật động tĩnh, trá ngụy văn thư, đẩy cô quả, để đợi quỷ ứng.
Phong độn
Kỳ Bính, cửa Khai, dưới là cung Tốn, không phạm Mộ Bách là được linh kỳ, thuận buồm xuôi gió tiện lợi.
Lại nghi Tâm hợp cửa Sinh, cửa Hưu, dưới là sáu Ất. Phương ấy có thể lặng lẽ hớp khí gió mây, phun lên cờ phướn nhiều lần hoặc gọi Thác dị độn, khiến quân sĩ lặng lẽ nghe âm.
Lại kỳ bính, cửa Khai, trên cung Khôn, nên cầu đảo Phong bá vũ sư, cùng với lũy dịch dụng cờ phướn, để đợi gió ứng.
Vân độn
Kỳ Ất, cửa Khai, ở trên cung Khôn, không phạm Mộ Bách, là được Mây che chở.
Lại Kỳ Ất, cửa Khai, dưới là sáu Tân. Phương ấy có thể lặng lẽ hớp gió mây phun lên giáp mạo, mây xanh nhiều lần, hoặc gọi tên Thác tạ điêu. Khiến quân sĩ ngửa mặt nhìn xem. Lại nên cầu mưa hòa để lợi việc cấy cầy. Dựng doanh trại, làm quân khí để đợi gió mây ứng.
Long độn
Kỳ Ất, cửa Hưu, dưới là sáu Quý, hoặc cung Khảm là được Rồng che chở.
Phương ấy có thể tế Long thần, cầu mưa thuận, thủy chiến, diễn kế địch. Lường mặt sông, giữ việc qua sông, đánh thủy chiến, mật vận cơ mưu, rời thuyền chuyển hướng, thả thuyền, khơi sông, đóng bồn nước, tà đảo quỷ thần, đắp đê, ngăn sông, làm cầu, đào giếng để đợi phong ứng.
Sách Vũ bị chí lại viết là: cửa Hưu với Kỳ Ất tới cung sáu Giáp ở cung Khảm là Long.
Hổ độn
Kỳ Ất, cửa Sinh, trên sáu Tân là được thần Hổ che chở. Còn nói sáu Tân hợp cửa Sinh trên cung Cấn.
Phương này có thể chiêu an đảng nghịch, đặt phục, gọi chiêu, dò nơi yếu hại, tựa nơi hiểm ngăn giữ. Dựng sơn trại, đặt quan ải, phòng hiểm, làm, đào để đợi phong ứng.
KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 22
Tổng ca 8 cửa (bát môn tổng ca)
Kỳ đến cửa Khai, lợi xuất hành,
Cửa Hưu, kiện cáo, tiến thư nhanh.
Cửa Sinh, nhập trạch và hôn thú,
Thương mà đòi nợ, có công lênh.
Đỗ nơi ẩn trốn và hang lấp,
Cửa Cảnh thịt xôi chè chén nhanh.
Cửa Tử đi săn và xuất trận,
Cửa Kinh, phục chúng, cầu mưu thành.
Môn bách, cung bách
Cung chế Môn gọi là Môn Bách. Môn chế Cung gọi là Cung Bách. Cung Bách gọi là chế. Cửa cát bị Bách thì việc cát không thành. Cửa hung bị Bách thì hung tai càng nặng.
Nguyệt kiến, 9 tinh và xuất hành
Kiến: Xế, Trừ: Âm, Mãn: La hầu.
Bình, Định: ngoại tham, Chấp: Thủy.
Phá: hành mộc, Nguy: Dương, Thành: Thổ.
Thâu: Tử (mầu tía), Khai: kim, Bế: Nguyệt bột (Bột: sao chổi)
Kiến, Thanh long đấy, dụng làm đầu (tốt nhất)
Trừ ấy Minh đường hoàng đạo cầu.
Mãn thuộc Thiên hình, Bình, Tước đỏ (Chu tước)
Định là Kim quỹ (tráp vàng), cát thần chầu.
Chấp là Thiên đức, ngày Hoàng đạo,
Phá: Bạch hổ, Nguy: Ngọc đường câu.
Thành ấy Thiên lao kiên cố giữ,
Thâu là Huyền vũ, gặp tâm sầu.
Khai là Hoàng đạo Tư mệnh tới,
Bế: móc câu (Câu trận) làm chẳng cứ đâu.
Hoàng đạo xuất hành thì đại cát,
Hành quân, chiến đấu, tắc lo âu.
Phạm phải Hình mà xuất quân tất thương. Phạm lục súc, chết chóc (Mãn là Thiên hình)
Phạm phải Thiên lao thì người thương, tặc bại vong, tài bạch không lợi (Thành là Thiên lao).
Phạm phải Huyền vũ thì mất tiền của, nô tỳ trốn chạy, gặp giặc cướp, thương thai (Thâu là Huyền vũ).
Phạm Thanh long, cha mẹ an hem ganh ghét nhau, chết, vào ngục, trốn chạy gặp cướp bóc (Kiến là Thanh long).
Phạm Chu tước thì hung, chết, đổ máu, mất tiền trên đất (Bình là Chu tước).
Phạm Bạch hổ, sửa sang Minh đường (Phá là Bạch hổ, Trừ là Minh đường).
Phạm Thiên lao, sửa sang Ngọc đường (Thành là Thiên lao, Nguy là Ngọc đường), tức nơi này thì trấn áp, nơi kia thì tiêu tai, rất có công.
Ngũ Tử Tư nói:
Khi đi xa, mọi việc không nên nán trọ ở Thiên đình (Tân), Thiên ngục (Canh), Thiên lao (Nhâm). Ba thần này mà qua trên thì rất hung.
Nên cưỡi Thanh long (Giáp), trải Bồng tinh (Ất), trăm ác đều không dậy.
Kỵ ngày gặp Đại kim cương
Khuê, Lâu, Dốc, Quỷ với Ngưu, Cang
Khiển tướng ra quân chớ vội vàng.
Đất khách quay về, đường trộm cắp,
Cầu mong tài lợi khó thêm mang.
Đi thuyền có thể lo thuyền đắm,
Buôn bán giao qua chẳng dễ dàng.
Đào giếng công toi, chẳng thấy nước,
Ra quan, nhận tước chịu nhỡ nhàng.
Hôn nhân thì chủ nhiều tai hại,
Chôn cất sinh linh có tổn thương.
Muốn hỏi cát, hung tinh nẻo ấy,
Cầu ở Thiên phù Bí mật kinh.
Tổng đoán số dịch
Ngọc sách Thiên nguyên, thành chí lý,
Chia Đinh, sai Giáp, Lạc thư ký.
Âm Dương biến hóa, ngược xuôi chiều,
Tùng vết, nhóm năm trên chín vị.
*Độn có ba tài: Thiên, Địa, Nhân,
Long, Hổ, Phong, Vân với quỷ thần.
Sinh Thổ, sinh Trung, phụ thần vị,
Tám quái bay trên tám cửa trần.
*Một Trung tạo hóa lộ thiên cơ,
Thượng đế lần hư, cất bước phi.
Trung để suy lường đường tới lánh,
Giầu thần hợp sóc bói thời kỳ.
Xuất hành tạo táng, làm trăm lợi,
Kim cổ, thời nào, ai biết hết.
Một ngàn tám chục, Hiên Viên chế,
Tử Phòng mười tám cục thần kỳ.
Trí tuệ thông thần nên hiển đạt,
Bốn mươi tám cách khó suy bì.
Ta nay theo cổ biên thành sách,
Số Dịch tinh thông đến nghĩa vi.
*Người sau không biết, đọc mà hay,
Rảo bước lên thềm đường lối dày.
Xung, Phụ, Cầm, Nhậm, Tâm tới cát,
Ba Kỳ thần nữa, tốt lành thay.
*Trực phù, Trực sử hiềm xung kích,
Khai Hưu Sinh là ba cửa cát.
Đại khái, ra vào Khí tiết sao?
Kỳ môn chôn cất vào Long huyệt.
*Mở nên, chém gỗ với đi buôn,
Động dụng làm gì hãy chọn phương.
Dùng đó, đừng ngờ, đừng ngoái cổ,
Chí thành, cảm ứng phúc vô cương.
Tam Kỳ đắc sử nên dùng đó,
Sáu Giáp mà trùng hay chẳng nhỏ.
Ất về Chó Ngựa, Bính Chuột, hầu,
Sáu Đinh nàng Ngọc cưỡi Rồng Hổ.
*Còn có Tam Kỳ du Lục Nghi,
Gọi là Ngọc nữ thủ môn phi.
Mậu Tý, Kỷ Mão và Canh Ngọ,
Bính Ngọ, Đinh Dậu, Ất Mão kỳ.
Lợi việc riêng tây, hòa hợp nẻo,
Cung đình yến tiệc cũng nên khi.
* Tam Kỳ nhập Mộ dùng làm chi
Giở việc giờ này có thể nguy.
Ngũ bất Ngộ thời càng đáng hận,
Gọi là Nhật Nguyệt tối âm u.
Là lúc Can giờ Khắc Can Nhật,
Trăm việc đều hung, chẳng được gì.
Thuận, nghịch Trực phù thông bảy thần,
Địa nơi ẩn nấp, Thiên dàn quân.
Thái âm, Lục hợp nơi về lánh,
Câu trận, Đằng xà, ruộng đất ganh.
Bạch hổ phương tây, thần chém giết,
Huyền vũ trộm cắp phỏng lần chân.
Thiên ất Lục Mậu khó mà gặp,
Gấp phải theo thần, hoãn kiếm môn.
*Thiên Tam môn, Tứ địa hộ,
Hỏi nhau phép ấy nơi nào đó.
Thái xung, Tiểu cát với Tòng Khôi,
Đó gọi Thiên môn, nơi xuất lộ.
Địa hộ: Trừ, Nguy, Định với Khai,
Đến việc, đường này thông lọt dễ.
*Thái âm, Lục hợp, Thái thường quân,
Là Địa tư môn, ba cát thần.
Thêm được Kỳ môn cùng chiếu đến,
Ra ngoài mở việc, dạ hân hân.
Thái xung, Thiên Mã là chân quý,
Có nạn theo đây mà lánh đi.
Ví gặp thời may cưỡi ngựa trời,
Hổ báo chôn chân khôn kịp ví.
*Tối cát kỳ môn với Thái âm,
Ba ban khó được cùng chiếu lâm.
Cung Phương nào hợp cũng là quý
Mọi việc làm ra sẽ toại tâm.
*Sáu Bính, Sinh môn trên sáu Mậu,
Thiên độn là đây, nên tới đậu.
Sáu Ất, Khai môn trên Kỷ bay,
Địa độn là đây, lợi ẩn giấu.
Hưu môn, Lục hợp, Đinh, Thái âm,
Nhân độn là đây, từng kết cấu.
Ba độn trên đây trăm việc hay,
Giấu ảnh, thu hình càng tốt sâu.
*Ất Tân là Bồng, Hưu Khảm thấy,
Long độn là tên, giữa nước quẫy.
Tân Ất hùm thiêng gặp cửa Sinh,
Gọi là Hổ độn, rừng cao nhảy.
Lục Ất trên Tân hợp cửa Hưu,
Hơi nước sinh phong, Phong độn kêu.
Lục Ất trên Tân, Sinh đến hợp,
Nguồn Cấn, đất Khôn, Long độn chiều.
*Sinh và Bính Nguyệt trên Cửu Thiên,
Thần độn nơi đây, để phúc duyên.
Bằng nay Ất Nhật trên Cửu địa,
Quỷ độn là đây, đạt ảo huyền.
*Lục nghi kích hình, giờ rất hung,
Trực phù hình xứ, với thời cùng.
Tý – Mão, Tuất – Mùi, Thân hiềm Hổ (Dần).
Thìn, Ngọ tự hình Thìn, Ngọ cung.
*Thời, Nhật, Môn, Tinh có Phục ngâm,
Hưu trên Hưu ấy, Bồng trên Bồng.
Tiền của chỉ nên đâu để đó,
Làm liều, tai hại đến sau lưng.
*Đến như Phản ngâm Tý trên Ngọ,
Càng ngại Môn, Phù xung đối đọ.
Hãy mở kho ra chẩn phát đi,
Ra quân, động súng thì xui xó.
Kỳ môn sao cát ví cùng lâm,
Miễn được hình tai, may mắn có.
*Cung khắc Môn hại, lại chiêu tiền,
Môn chế cung, cung hủy bách liền.
Cát môn bức bách nhiều tật bệnh,
Hung môn gặp bách, hung dấy lên.
*Bính là bột nghịch, Canh là cách,
Gặp cách không thông, Bột loạn nghịch.
Bính cưỡi Can Ngày với Trực phù,
Kỷ cương xáo trộn khôn ngăn trách.
Canh trên Bản Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời,
Đều là Can Cách, sinh tai khích.
*Sáu Bính trên Canh, Huỳnh nhập Bạch,
Giặc đang muốn rút, thế nên được.
Sáu Canh trên Bính, bạch nhập huỳnh,
Tin giặc tới nơi, thế mạc trắc (không lường được).
Canh trên Trực phù, Thiên Ất phục,
Trực phù trên Canh, Thiên Ất phi.
Trên cung một ấy, chiến trong nội,
Hình cung một ấy, nước loạn thì.
Canh trên Quý ấy, Cách là Đại,
Trên Nhâm là Tiểu cách suy vì.
Trên Kỷ là Hình, đường cách trở,
Can ngày trên Canh, Phi can suy.
*Còn có một ban gọi cách “Thì”
Là khi Canh đến trên ba Kỳ.
Lúc này ví thấy xuất quân khứ,
Một ngựa, một xe, chẳng trở về.
*Sáu Quý trên Đinh, Xà yêu kiều,
Trong lòng bối rối, nỗi tâm tư.
Đinh trên Quý: Tước đầu giang đó,
Kiện cáo, gian ngoan đủ mọi chiều.
*Sáu Tân trên Ất, Hổ xướng cuồng,
Là ngại người thân bị tổn thương.
Sáu Ất trên Tân Long đào tẩu,
Tiền tài tiêu tán, dạ kinh hoàng.
*Long hồi thủ bởi Giáp trên Bính,
Trong dạ vui mừng như ý mong.
Bính trên Giáp gọi Điểu điệt huyệt,
Mọi việc đem làm được đại công.
*Động việc Thiên bàn là phía Khách,
Địa bàn yên tĩnh là Chủ vạch.
Xét kỹ Kỳ môn với Tinh Cung,
Cùng là Hình Khắc, cát hung quyết.
Nhật Nguyệt chia xem phương vượng suy,
Lại xem khí sắc áng mây ven.
Giả như Bồng ngự trên cung Chín,
Được tháng Thu Đông, vượng tướng truyền.
Ngày gặp Quý Nhâm và Hợi Tý
Khí đen phương Bắc, Khách đương lên.
Thiên Anh ví ngự trên cung một,
Phương Bắc, ngày Đông Chủ lợi hơn.
Tinh vị Kỳ môn suy phỏng thế,
Người với Thời Phương xét nét nên.
*Từ Dần đến Ngọ năm dương thì (giờ Dương),
Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu hợp nghi.
Chiến trận xuất hành thì Khách thắng,
Hôn nhân, khởi tạo, đổi rời khi.
*Từ Mùi đến Hợi năm giờ Âm,
Và Kỷ Canh Tân Nhâm Quý tầm.
Lợi Chủ, tập mưu, dự bị dụng,
Còn nên cầu đạo với đi ngầm.
*Mười Can, sáu Giáp là Chủ tông,
Trên dưới giao thừa khai hạp phân.(Khai là Mở, hạp là đóng)
Dương tinh trên một cung Khai, cát,
Âm tinh trên một cung hạp, hung.
Giáp Mạnh nên chiến, Trọng lợi Thủ,
Cung phương trên Quý cát tự hung.
Tiến lui, mở việc, bằng Thiên cục,
Tắc lối, âm mưu, địa tĩnh dùng.
*Ba kỳ mà thấy ở năm dương,
Thì nên làm Khách mới cao cường.
Ví ở năm âm Kỳ xuất hiện,
Lợi về phần Chủ, liệu tìm phương.
*Ba kỳ sâu kín diệu khôn đòi,
Âm nghịch nên sau, dương trước, xuôi.
Mỗi thời chia rõ Sơ, Trung, Mạt,
Phù đầu giữ trọn trước sau coi.
*Đức ất vãng lai, loáng tựa thần,
Đi thì rượu thịt, của tiền cần.
Tám cung hôn nhân, chuyển, hay cho Khách,
Chỉ ngại roi hình với giận dằn.
Nguyệt Kỳ sáu Bính gọi Thiên oai,
Khí lửa nung ..m, yên mọi nơi.
Ra chợ, vào quan, Tiên được gặp,
Nghe trông lo lắng, ngóng mừng vui.
Sáu Đinh, nàng ngọc Thái âm tinh,
Lui tới Minh u, cũng mặc tình.
Xin yết, buôn, hôn đều cát cả,
Mừng lo phân nửa lợi tư doanh.
Sáu Mậu, ba môn, hung chẳng khởi,
Cưỡi rồng muôn dặm tùy lui tới.
Ngựa đi không tiếng, Khách theo chân,
Buôn bán được tiền, chạy sợ hãi.
Kỷ là Lục hợp lợi cơ mưu,
Ẩn giấu như thần, trời cũng chiều.
Lui tới ra đi trăm việc lợi,
Kinh đi, hung lánh, lợi dân nhiều.
Sáu Canh, Thời gặp, tuyệt năm hồi,
Ví cưỡng mà đi tới ngục trời.
Buôn bán toi công, làm vật tổn,
Chỉ nên cố thủ là may thôi.
Sáu Tân ra gặp tử thi bầy,
Cưỡng việc, Thiên đình phạt tới tay.
Quan, Bệnh, Buôn, Hôn đều trở ngại,
Tự tìm lợi quyết, tội liền ngay.
Nhâm thực Thiên lao, cưỡng việc dùng,
Mong che, lợi lấp, trốn thì vong.
Bệnh thì thăng giáng thêm hen suyễn,
Quan lại cừu thù, trăm việc hung.
Quý tàng, xuất nhập, mọi ưu hung,
Lợi việc tìm Tiên, lợi trốn trong.
Ẩn tích giấu hình ai thấy được,
Bệnh thêm trầm trọng, ngày mung lung.
Thi quyết 9 tinh cát hung
Thiên Bồng:
Thiên bồng mọi việc lợi Thu Đông
Kiện cáo, yên bờ, Xuân hạ công.
Dựng gả không hay, thay đổi dở,
Vào quan lối hiểm, cửa nhà hung.
Bán buôn, chôn cất, làm đều bỉ,
Có được Kỳ Môn mới tạm thông.
Thiên nhậm:
Kìa sao Thiên nhậm thấy uy nghi,
Trăm việc cầu mưu lợi bốn thì.
Tạo táng, vào quan và thỉnh yết,
Đi buôn, dựng gả với rời đi.
Ngoài biên cũng tốt khí thần vượng,
Lai phát cơ duyên, Khách gặp nguy.
Thiên xung:
Thiên xung báo oán, sân xuân phong,
Muôn dặm oai phong, đởm khí hung.
Không lợi Thu Đông, Xuân Hạ thắng,
Vào quan, buôn bán việc long đong.
Hôn nhân, chôn cất, xây, sinh khó,
Chờ đợi Xuân về, muôn việc thông.
Thiên Phụ:
Thiên Phụ tu thân, lợi tạo doanh,
Xuân hè chinh phạt nước non bình.
Tội hình cũng được trời tha bổng,
Tiễn xuất vào quan, công việc thành.
Giá thú đông con, buôn lắm lợi,
Đổi rời, yết kiến thì vô tình.
Thiên Anh:
Thiên Anh sao ấy thực loanh quanh,
Yến tiệc, đi xa, thú vị trù.
Chôn cất, vào tu, hôn thú tốt,
Xây nhà dựng cửa lại không chu.
Chủ nên cẩn thận, dừng nên Khách,
Khách ví chưa công, nguy có cơ.
Thiên nhuế:
Nhuế tinh vào đạo kết giao nên,
Giờ việc, đi chinh chớ tự quyền.
Trộm cắp, sợ lo, thương trẻ nhỏ,
Tai hình, tù ngục, việc quan liền.
Xuân Hè hung lắm, Thu Đông cát,
Ví được Kỳ môn cũng chẳng hơn.
Thiên Cầm:
Thiên Cầm đóng giữa bốn trời thông,
Nói lớn ăn to, có đại công.
Hoạt động nên dung mưu trả phục,
Tế thần cảm ứng việc quan xong.
Hôn nhân buôn bán và xây cất,
Thêm có Kỳ Môn phúc đỏ hồng.
Thiên Trụ:
Thiên Trụ trên non, xây cất lành,
Tế thần, giá thú, việc thông hanh.
Giấu hình, giữ cẩn là hơn cả,
Rời đổi, đi chinh phải thụ hình.
Các việc doanh mưu đều xấu cả,
Cưỡng làm, Chủ hẳn bị thương kích.
Thiên Tâm:
Thiên tâm mầu nhiệm đạo thần tiên,
Luyện thuốc, cầu trên, mọi việc nên.
Giá thú, vào quan, cùng đổi chuyển,
Đi chinh, chôn cất, tế cầu yên.
Thu đông thì cát, Xuân Hè xấu,
Quân tử thì hay, dở tiểu nhân.
Thi quyết 8 môn cát hung
Cửa hưu:
Cửa hưu chín chín khí đầy nhà,
Con cháu giầu sang đất cát đa.
Tế lễ, kinh doanh, nhà đến ở,
Phó quan, rời đổi tốt đều hòa.
Đẻ lành, lánh kín, người hưng thịnh,
Bắc vượng ngày Đông, sáu một qua.
Nam Bắc hôn nhân, quen thuộc cả,
Lại qua sáu súc (giống nuôi), trật quan gia.
Cửa Sinh:
Cửa Sinh tám tám, khí đây sao,
Hung sát đều hàng, Thổ đắp cao.
Đợi gái mang tiền, người gửi vật,
Từ nay phú quý, cháu con trào.
Ba năm, định có sinh con quý,
Đi lại ngoài châu, tiền của vào.
Giá thú, gieo mầm và dựng đổi,
Tiêu tai, phát phúc lạ lùng sao.
Cửa Thương:
Cửa Thương khí đoản, số ba ba,
Dần Mão vượng phương, âm Dốc pha.
Săn lưới, đi chinh, đòi lấy nợ,
Còn hay cờ bạc đuổi người qua.
Quant ư, cãi cọ, tang chồng chất,
Sáu súc toi luôn, trộm cắp sà.
Chồng vợ choảng nhau, còn mắt bệnh,
Ba tuần đẻ nạn, họa đào pha.
Tuổi tên chết mất và phong chứng,
Hổ rắn thương người, ở khó qua.
Cửa Đỗ:
Đỗ môn bốn bốn, ấy sao hung,
Tính mộc, phương nghiêng Dần Mão đông.
Đóng, dắt, ngăn dòng, nhiều lấp liếm,
Đuổi tà, đinh trộm, móc câu tròng.
Đi vong, trốn khó, thôi mong muốn,
Ẩn nấp, che thân, kín đáo vùng.
Đuổi mạnh, đi xa, thì lẽ đúng,
Riêng tư có thể giữ lâu cùng.
Những khi động dụng phòng quân trộm,
Tài tán, quan tư, ôn dịch xông.
Sét đánh, rắn thương, người ghẻ lở,
Nhà siêu, kho cháy, lại người vong.
Cửa Cảnh:
Cảnh môn bẩy bẩy tía hồng quân,
Tị Ngọ vượng Nam, kết Tuất Dần.
Sai sử, đưa thư, nguy giải ách,
Cầu mưu, tu tạo, yết cầu thân.
Cất chôn, dựng gả, lành trong việc,
Cấp thưởng dùng người như cánh chân.
Hiến kế, cầu danh, gần bệ ngọc,
Kén tài, khoa cử, nổi danh văn.
Cửa tử:
Cửa Tử hai hai, tinh ngược ác,
Cấn Khôn Mậu Kỷ là phương được.
Lưới săn, giết chóc, phương này nên,
Tống táng, viếng tang thì cũng thích.
Xây dựng lo trên với kẻ bằng,
Tang trùng kẻ chết nhiều ngang ngược.
Cầu mong không lợi, chẳng nên cầu,
Động, thấy thua toi, quan mất chức.
Cửa Kinh:
Cửa Kinh không hóa khí là ngược,
Vượng ở Canh Tân Thân Dậu cước.
Vó lưới chăng cao, tụng ngục chờ,
Cửa công, hình kích, đều theo bước.
Trốn đi, lừa bắt, đều có công,
Bán chợ, tu doanh, thua lỗ trước.
Kiện tụng, kinh hoàng, tật dịch hưng,
Bại tù, quân giặc, chó dê chết.
Cửa Khai:
Cửa Khai sáu sáu khí đầy phè,
Yết kiến, cầu mưu, lợi lộc ghê.
Dựng cửa, xây nhà, quan chức tiến,
Ngoài về tiền lụa ngựa trâu dê.
Mật ong hầm chứa, hoạch phát tài,
Con cháu giàu sang, danh lợi đề.
Thân Dậu Canh Tân, Thu nguyệt vượng,
Bán buôn, sản xuất lợi Thu về.
Kỳ môn 9 tinh ngày
Lại còn Thái ất chín tinh vị,
Đông chí từ Cấn, Khôn Hạ chí.
Khởi từ Giáp Tý, thuận nghịch hành,
Bản nhật tới cung Thái ất ký.
Thái ất cầu tài vạn sự thông,
Nhiếp đề, đâm đánh náo ồn trông.
Hiên viên xuất nhập nhiều kinh hãi,
Phạm phải Chiêu dao máu đổ hồng
Ví được Thiên phù săn bắn lợi,
Thanh long kiếm lợi, hỷ trùng trùng.
Hàm trì đưa đến quan nha hỏi,
Gặp Thái âm tái ẩn chất chồng (ám tài).
Thiên Ất quý nhân nhiều rượu thịt,
Chín tinh ứng nghiệm rất linh thông.
ĐÌNH ĐÌNH – BẠCH GIAN
Trên Trời rất quý là Đình Đình. Nên tựa nơi đây kích mặt xung.
Phép tìm Đình Đình:
Nguyệt tướng trên thời Thần hậu đó (Đình đình đây)
Sinh thần, tựa hướng một ban cùng.
Trên trời thần hảo Bách gian vị,
Cách ở Dần Thân, hợp Tị Hợi (do đình đình thấy Bạch gian).
CÔ - HƯ
Nguyệt tướng trên Thời câu Mạnh thần
Hợi Dần Thân Tị hợp Mạnh đề.
Trong đó Cô đều Nhâm Quý phương,
Cung đối phương là Hư đóng đó.
Tựa Cô, Kích Hư, Hư dụng gian,
Một bà địch nổi trăm ông đó.
KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 23
LUẬN TINH 10 PHƯƠNG SINH KHẮC
Thiên nguyên tức thị, Người Thời Nguyên
12 phương vị, người ngồi bên
Nguyệt tướng tìm giờ theo thứ định
Quý nhân nên xét ,can ngày truyền
Thiên nguyên :vua, bố, chồng, chủ sự,
Người tôn, bậc trưởng, đầu và da,
Quý thần, quan lộc, tâm, nhà chủ,
Quân lại ( các công chức ), ngoại tài, vú ức, rốn.
Nguyệt tướng:anh em, thân thích trùng,
Nội tài, con, vợ, bụng, eo, lưng,
Dưới là tôi tớ, thần dân, thiếp,
Cháu, cẳng, trong nhà,vật vật cùng.
Can khắc phương là thê thiếp động
Hao hụt tiền tài, kẻ dưới đau (ốm)
Bên ngoài mắc phải nhiều tai tiếng
Trong nhà chẳng liệu được vui đâu
Can khắc thần là quan lộc động
Quan, tài đều vượng, phi thường thay
Người ngoài định kế, mưu làm hại
Chợ khg lợi lộc, kiến tan ngay.
Can khắc Tướng là động nội tài
Cầu tài được lắm, vợ đau hoài
Thêm nhà, thêm cửa, nhiều xây dựng
Đem vốn cầu tài, lợi mấy mươi.
Can sinh thần:kẻ thân vào hỏi,
Lại có người ngoài, đồ biếu tới.
Biếu đồ quan phủ vẫn hay dùng,
Biếu đi biếu lại nhiều phen phê dối.
Can sinh nguyệt tướng :nội tài hưng
Đồ vật người đem biếu xén từng
Nội ngoại anh em hòa khí hợp
Cha từ, yêu mến cháu, hay chăng.
Can sinh phương vị :ân mưa móc,
Ấm con, thêm cháu, tiền, nô bộc,
Xem sản vừa hay, dễ nấng nuôi,
Phi thường ân sủng, trời ban phúc.
Thần khắc can là động lộc quan
Sĩ phu vị có ,khó cầu tiến
Người thường được vật nhà quan dụng
Tiền về,chồng tổn,họng đau khan.
Thần khắc Tướng là nội tặc sinh
Gian lừa giăng mắc, trộm chung quanh
Tổn tài, con trẻ hay đau bệnh
Cầu vọng không thành, bệnh khó lành.
Thần khắc phương là cách trở nay
Cầu tài muộn được, việc chờ ngày
Chủ nhân giận khiến đau nô bộc
Xem bệnh bụng đau, chân lắt lay.
Thần sinh can : được quan tiến dẫn
Người mang vật biếu, gặp quan trên
Được thời, tế tự nên linh ứng
Có định tìm ai, gặp mặt liền.
Thần sinh Tướng ấy, hôn nhân hay
Trân vật: có người đem tặng nay (mai )
Cầu vọng, mưu vị :đều toại ý
Dặm thẳm người về :sắp tới đây
Thần sinh phương vị :cách thần động
Uyển chuyển mưu làm việc mới thành
Gia chủ ôn hòa ân huệ xuống
Gia nô tận lực, nghiệp sinh doanh.
Tướng khắc can: mừng cách cả hai
Việc mừng hớn hở, ở trời xui
Cầu tài trở cách, việc thành khó
Phải đợi Lộc trời hợp mới hài.
Tướng khắc thần là tài động hưng (hung hay hưng ?)
Cầu tài được lợi, vợ đau từng.
Cầu quan không được, bệnh khốn trị
Xuất ngoại thương đau, tổn hại cùng.
Tướng khắc phương thì cứ phải lo
Lo cho tật bệnh, đau chân giò
Trẻ đau, tiền, tớ nhiều thương tổn
Kiện tụng trong nhà, yên chẳng cho (khg yên )
Tướng sinh can:ấy được yên lành,
Hòa hợp trong ngoài,vợ chánh trinh.
Tiền của tăng thêm, con hiếu thuận.
Người thì mạnh khỏe, cửa nhà bình.
Tướng sinh thần: chủ hợp hòa
Điềm lành trăm việc, phúc thêm gia
Vợ hiền, con hiếu, nhà êm ấm
Cứu giúp tiền nong, dựng quán nhà
Tướng sinh phương: sao tốt lành
Lụa tiền đưa đến, giúp thân tình
Cháu con mừng rỡ, nhiều đưa dắt
Trời tựa cho nên có phận dành.
Phương khắc can là động quỷ quan
Quan hạnh, xuất ngoại, kiện lan man (hạnh :cố chấp ,gàn)
Tai ưu, cải cọ, con cầu tổn
Ẩn lánh nơi này chẳng được an.
Phương khắc thần là quan lộc động
Cầu quan thêm lộc, tất thành danh
Thương thần tiến cử không ai tiến
Quan giận, liên miên có ngục hình.
Phương khắc tướng là lộ giặc ngoài (ngoại tặc )
Hao tài, thê thiếp có ương tai
Xuất gia, người muốn tìm tu đó,
Vật mất đi tìm thấy lại ngay.
Phương sinh thần ấy sao dùng Hòa
Uyển chuyển mưu làm, tốt đẹp mà.
Nô bộc tận tâm trung với chủ,
Cửa nhà sáng sủa, vượng thêm ra.
Phương sinh can sao hiếu trung,
Vua, thày (quân sư), cha mẹ (tất) cả vui mừng.
Ấn trao, bay nhảy nhiều phương ích
Tế lễ, nên hay phúc lại trùng .
Phương sinh tướng được Nhâm tinh
Đất chờ điềm lành, hỷ khí sinh
Hòa hợp, hôn nhân, mưu vọng được
Gia đình hòa khí, nghiệp thay tình.
Thượng thuận hạ sinh :phúc khánh trời
Người ngoài biếu vật, tiến thêm tài
Thêm đinh(người), trăm việc:đều hòa hợp
Đẻ dễ, người đi về đến nơi.
Hạ thuận thượng sinh :đẹp xuất hành
Kinh thương nhiều lợi, đẹp tâm tình
Cầu quan được cất (nhắc ), mộng ân nhắc
Hỷ tính trong nhà truyền báo nhanh.
Thượng thuận khắc thời :ngoài khắc trong
Người ngoài giả dối mưu hại lòng.
Ghét ganh, tài phá, trên đè dưới
Chân bệnh, cơ ngơi nhiều thoát trong
Hạ thuận khắc thời :trong khắc ngoài
Trẻ con ngổ nghịch, quan tư hoài
Lằng nhằng, tiền mất, nhiều tai tiếng
Mửa tháo, làm đau :biết cậy ai.
Can -Thần cùng tỉ (hòa ) :cận mưu thân
Không phạm họ hàng, không lụy gần
Thần -Tướng tỉ (hòa)cùng :thân thuộc tốt
Mưu làm, nhờ vả được tôn thân
Tướng -Phương Tỉ ấy: bạn bè nhau
Nhờ bạn việc thành, chẳng đợi lâu
Can-Qua :ví như huynh đệ loại (can-qua:gươm-giáo)
Sự mưu không thực :ghé vai đâu?
Toàn tỉ: người thân thuộc chập chùng
Ta thì đoạt chính :cháu hơn ông
Dưới trên hổn độn :không riêng rẽ
Hung có, cát không, nạn ngại ngùng.
Thần cùng can hợp: hợp ngôi quan
Thi cử đua tài, vượt vũ môn
Còn kẻ tầm thường vương kiện cáo
Mong cầu nho nhỏ dễ thành toàn
Thần Tướng hợp cùng: là chính hợp
Hôn nhân thành tựu, việc hanh thông
Lại nhiều bằng hữu, người lân giúp (hàng xóm)
Duy bệnh sui về Thu với Đông
Tướng Phương cùng hợp: là giao hợp
Hôn nhân, xa cách, lâu năm (sẽ) thành
Mưu cầu, thành muộn, đau mong đợi
Lấy dưới động trên, hợp mới nhanh.
Can cùng Tướng hợp: tên là cách
Nội ngoại quan phòng, chậm tiễn đưa
Phương hợp Thần là việc quá cũ
Trẻ nhờ tựa lớn, việc không chờ.
Phương cùng Can hợp: người mưu ta
Có việc tranh giành trong cửa nhà
Phương vị-Tinh-Kỳ -Môn các Tướng
Cát hung, bình ổn tùy thời pha.
Bằng vai là vượng-Ta sinh tướng
Hưu ấy Thê tài -Tù quỷ vương
Tử là cha mẹ chia trọng khinh
Hữu khí đại hưng, vô (khí) đau ốm.
*Đại cát tinh vượng: nên thắng tiểu (cát tinh)
Vô khí không bằng tiểu tinh lành (Mộ -hình -không -tuyệt...)
Cát khí gặp thời nên vượng tướng
Vạn sự vạn toàn:công nghiệp thành
*Hãy xem Thần Tướng và định mệnh
Sao ác nhiều nhà không chịu luận
Thái tuế, quan phù hiện cả lên
Ép sát dương hung (yểm sát trạc hung) hiển linh định
Ví nói tiền tài, tài rẻ phát
Ví gặp Không vong rẻ mất không
Ví gặp Hưu Tù cùng Phế Bỏ
Khuyên ai bất tất tiến gì nung
Ta nay suy diễn cục Thái số
Biến dịch tùy thời thấy đạo tông
Trực phù là lưới (cương )-Sứ là mắt (mắt lưới)
Diễn đến non Tây hết số vòng
Môn là ngoại quái -Cung là nội
Trực sứ quản giờ chính quái trông
*Hào bay xuất hiện, mắt trông đoán
Hào phục ẩn tang, tường hậu đâu
Phản quái tiên thiên cùng đối thủ
Hướng về phương ấy địch xem lưu
Xét cả vị lai sau các việc
Dụng :xem vượng Tướng Hưu Tù cầu
Hào Dụng thương có (bị thương ), tìm sinh cứu
Tuyệt xứ phùng Sinh, trong dạng sưu (sưu tầm)
Hai khoản phân minh suy đoán loại
Khuyên ai nhất nhất thuộc làm đầu
Nhắm cung bản mệnh, sáu nghi đầu
Giáp tý hành niên, bản mệnh đầu
Bản mệnh trong cung khởi Giáp tý
Âm dương thuận nghịch 1 vòng chu
Mệnh với hành niên tùy cung đoán
Biết ngay tình tính xuống lên (hưng ,vong ) cầu
Ba Dịch nên xem Chu Dịch chủ
Phép xem mở sáng biến tầm sưu
Tam, ngũ nghiên cơ :duy tại kỷ (tại ta)
Dụng tới sâu xa, chí thành cầu
Ví hay niệm mãi trong lòng ấy
Có thể tiến nơi cao cả mầu ./.
Yếu quyết Kỳ môn trên bàn tay
1- Kỳ môn huyền diệu chín cung trên,
2- Độn đến Kỳ nghi thuận nghịch truyền.
3- Cung cục Tinh Môn theo Giáp đổi,
4- Ngày giờ nên Độn năm Tý Nguyên (Nhật thời tu độn ngũ tý nguyên).
5- Trước đem tuần Giáp cầu Phù Sử,
6- Rồi đến Thời thần cùng đến an.
7- Rồi xét Can giờ cung nào đến,
8- Cung số Tinh Môn ghi đích đoán.
9- Tiện đem Phù Sử bay trên chín,
10- Hưu đến cung hai, khởi hai trên.
11- Nhậm trá cung ba, từ ba khởi,
12- Tinh-Kỳ-Môn hợp, mới kỳ nên.
13- Tám môn, Chi Can bay trên Địa,
14- Sinh khắc Hưu vượng, cát hung yên.
Đó thực thần tiên bí quyết,
Đã học, ngàn vàng chẳng thể truyền.
Chú giải:
1-Tức 9 quyết trên bàn tay.
2-Độn dương bầy thuận 6 nghi: Giáp Tý Mậu, Giáp Tuất Kỷ, Giáp Thân Canh. Giáp Ngọ Tân, Giáp Thìn Nhâm, Giáp Dần Quý. Bầy nghịch ba Kỳ: Tinh kỳ Đinh, nguyệt Kỳ bính, Nhật kỳ Ất. Độn âm bày nghịch sáu nghi, bầy thuận ba kỳ.
3.Giả như độn dương, cục 2. Trong 9 cung, từ cung Khôn khởi Giáp, đến giờ xem thì chỉ. Tuần Giáp Phù đầu đến cung nào, lấy Tinh và Môn cung ấy, Tinh là trực phù, Môn là Trực sử.
4-Ca rằng:
Giáp Kỷ hôm nay, giờ Giáp Tý,
Ất Canh, tìm Bính đầu giờ chỉ.
Bính Tân giờ Mậu Tý bắt đầu,
Tý của Đinh Nhâm, Canh có ý.
Mậu Quý tìm giờ Nhâm Tý coi,
Ngày giờ lần lữa đều đều chỉ.
Ca này để tìm giờ hằng ngày. Như ngày Giáp Kỷ, giờ Tý là Giáp Tý. Ngày Ất Canh, giờ Tý là Bính Tý…
5-Tức Tuần Giáp trên rơi vào cung nào. Tinh cung ấy là Phù, Môn cung ấy là Sử.
6-Giờ xem rơi vào cung nào, lấy Trực môn bầy trên là Sử.
7-Giả như lấy Giáp Tý trên Giáp X….Phù đầu trên cung 9, tính đến cung Giáp thì ngừng. Ngoài ra các cung thuộc kỳ, độn dương là Đinh, Bính, Ất, độn âm là Ất Bính Đinh. Theo từng cung một, Giáp Tý khởi đầu là Mậu, đến Kỷ Canh tân Nhâm Quý. Xem can giờ tới cung nào thì bầy Trực phù trên cung đó. Ất Bính Đinh ở đó cũng vậy
8-Ghi rõ cung Tinh Môn đó tiện thành cục.
8 Quái có định vị, tuy gặp Âm Dương 2 độn cũng không động. 9 Tinh cũng có định cung, tùy theo Trực phù mà bay. Xem cục X….trên khởi Tý đến Giáp x….phù đầu, tức chia Tinh môn. Lại đếm đến Môn X…tức là Thời. Như trên Giáp Tý khởi Mậu đến can giờ.
9-Trên tay, bay 9 cung. Đặt xong Kỳ môn thì lành dữ thấy được.
10-Như độn dương, cục 2, ngày Giáp Tý, giờ Ất Sửu, cửa Hưu bay đến cung Khôn 2 thì dừng. Đó là Môn, Trực sử.
11-Nhậm ở cung 3, tức Phù đến cung 3.
12-Chín Tinh, Kỳ môn đều cần được hợp mới nên dùng.
13-Tám môn Chi Can đều trên Địa bàn, cần được tương sinh mới dùng được.
14-Lấy Hưu Vượng Mộ Khắc mà suy cát hung.
Lời người dịch:
Độn dương, cục 2, ngày giáp Tý, giờ Ất Sửu, thì Trực phù là Mậu Giáp Tý bay từ cung 2 đến cung 1, trên Ất là can giờ. Cung 2 có cửa Tử, vậy Tử môn là Trực sử, giờ Giáp Tý ở cung 2, giờ Ất Sửu bay trên cung 3.
Vậy Trực phù trên cung 1 là cung của Hưu môn, Trực sử trên cung 3 là cung có Thiên xung, chứ không phải Thiên nhậm. Nhậm ở mục 11 trên đây không khớp vào đâu cả
Hình đồ bầy 9 cung trên tay Hình đồ 9 cung bầy trên tay
Ngựa vượt khe tung vó,
Gặp Dần nhiều Lợn Chó.
Mỗi cung, mỗi cục qua,
Không dùng Lợn Chuột Trâu.
Dương thuận, Âm nghịch.
Quyết siêu thần Tiếp khí chế nhuận
Nhuận Kỳ tự có quyết huyền diệu(1)
Thần Tiên không chịu nói rõ ràng. (2)
Phù đầu, hai chữ Giáp Kỷ chọn, (3)
Tý Ngọ Mão Dậu là cục trên (4)
Dần Thân Tị Hợi cục Trung đó,
Thìn Tuất Sửu Mùi, cục Hạ len.
Tiết thông Phù, Phù thông Tiết,(5)
Muôn lạng hoàng kim không dễ truyền
Trước Tiết gặp Phù thì Siêu độ,
Sau Tiết gặp Phù thì Tiếp liên.
Siêu thần Tiếp khí mà thông hiểu,
Là khách ngoài mây ba núi tiên.
1.Lấy giờ đặt nhuận.
2.Đặt nhuận ở trước 2 Chí: Đông, Hạ. mỗi tháng tiết khí lấy linh 30 ngày, 5 giờ, 2 khắc làm chuẩn. Lấy 30 ngày chia 6 cục thì còn dư 5 giờ 2 khắc. Phép đặt nhuận, khi gặp Khí Mang chủng hay Đại tuyết mà thấy đã Siêu quá 9 ngày, thì đặt Nhuận. Đại khái 5 ngày là một nguyên. Mỗi ngày 12 giờ.
3.Giáp Kỷ này thật là Chí yếu. Đặt nhuận, lấy 2 chữ Giáp Kỷ làm Chủ. Giả như Phù Giáp Kỷ đã đến trước gọi là Siêu. Phù Giáp Kỷ chưa đến gọi là Tiếp. Giáp Kỷ với Tiết cùng đến gọi là Chính.
4.Giáp Kỷ gặp Tý Ngọ Mão Dậu là thượng cục.
5.Phù tức Giáp Kỷ phù đầu. Tiết tức Tiết khí.
Sáu Giáp lợi dụng
Kinh nói:
Khi có việc dùng, trăm việc đều hướng về phương sáu Giáp, hô tên thần, đi 60 bước, chuyển tả vào trong Thái âm, lại hô tên thần Thái âm thì vào Quý nhân được vui mừng, gặp trận thì thắng.
Tuần Giáp Tý, tên Thần là Vương Văn Khanh. Khi đăng đàn bái tướng, Tướng lệnh chịu nhận binh phù. Khi nguyên soái định kế khởi binh, phát lương trữ….đều hướng về phương ấy, hô danh thần ấy, đi 60 bước, chuyển tả, vào trong Thái âm thì nắm giữ việc như thần.
Tuần Giáp Tuất, tên Thần là Từ Hà Lợi Thông. Khi phạt rừng núi, làm bằng đường đi, khơi thong sông ngòi, được tự nhiên mở đường không tổn hại, đều hướng về phương ấy, hô tên thần ấy, đi 60 bước, chuyển tả vào Thái âm, thì được như ý, đường xá tự thông.
Tuần Giáp Thân, tên Thần là Cái Tân. Khi vào núi săn bắn, lùng bắt hổ lang, trùng thú, đều hướng về phương ấy, hô tên thần, đi 60 bước, chuyển tả, vào Thái âm, trùng thú tự nhiên không chạy.
Tuần Giáp Ngọ, tên Thần là Linh Quang. Khi yên doanh, bầy trận, tuần thú, chiến đấu, hướng về phương ấy, hô tên thần, đi 60 bước, chuyển tả, vào Thái âm, tất là thắng.
Tuần Giáp Thìn, tên Thần là Hàm chương. Khi cầu quan, bái tướng, phó nhậm vùng dân, hướng về phương ấy, hô tên thần, đi 60 bước, chuyển tả, vào Thái âm, làm quan không phải hối tiếc.
Tuần Giáp Dần, tên Thần là Giám Binh. Khi dương binh, chấn võ, dạy trận, đuổi khấu, hành quân chinh phạt kẻ không đạo, đều hướng về phương ấy, hô tên thần, đi 60 bước, chuyển tả, vào Thái âm, thì xuất hành biển yên, giặc cướp tự nhiên không dấy.
Trên đây, sáu Giáp quản hạt ngũ hành tôn thần, thể thống ưa tĩnh. Lúc hành sự vẽ tượng ghi chữ mà chế thì cát. Bởi vì sáu Giáp, trong quản năm hành. Mà động ứng thì không phương nào đủ 5 hành mà lấy bỏ. lại còn đạo tương sinh tương khắc. Tay trái tượng thiên, tay phải phép Địa. Thần linh ưa tĩnh cho nên viết 5 hành để chế nhau. Đạo vận hóa không gì không kiêm thế được.
Khi muốn xuất binh, đại tướng, trong tay tả, lấy son viết chữ cường, cuộn nắm tay lại, đi 60 bước, chuyển tả, vào Thái âm, có thể che yếu lấy mạnh.
Khi muốn gặp Quý nhân cầu quan và hai ngàn thạch lệnh trưởng, trong tay tả viết chữ Thiên.
Khi muốn buôn bán lợi lỗ hòa, kết giao bạn, giá thú, viết tờ khế thì viết chữ Hòa.
Khi vào núi săn bắn viết chữ Sư.
Khi coi việc (bộ công), yên dân cư thì viết chữ Cường.
Khi qua sông trị thủy thì viết chữ Thổ hay chữ Mậu.
Khi sóng gió gào thét, thuyền bè có thể đắm, đặc biệt kỵ ngày Bát phong (8 gió), Độc thủy (nước độc), Chiêu dao (vẫy vòi), hàm trì (ao liền), nên viết chữ Mậu.
Khi lên núi, vào đạo thì viết chữ Long. Rồng không dám động. Quay về phương Trực phù, đi 60 bước, chuyển tả, vào trong Thái âm. Được thế thì đạo Trời hanh.
Đây là phép diệu dụng Năm hành chế thắng.
KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 24
Xuất hành hô thần vào Thái âm
Khi xuất hành đi về một phương nào, hô tên tự thần phương ấy, mà đi 60 bước, chuyển tả, vào trong Thái âm, Độn dương, trước 2 vị là trong Thái âm. Độn Âm thì sau 2 vị là trong Thái âm.
Lại sáu Đinh cũng là Thái âm, hô tên tự Thần, giờ lúc dùng. Tinh trên Thiên bàn là tên tự.
Thiên Bồng tự Tử Cầm Thiên Cầm tự Tử Công
Thiên Nhuế tự Tử Thành Thiên Trụ tự Tử Thân
Thiên Xung tự Tử Kiều Thiên Nhậm tự Tử Vi
Thiên Phụ tự Tử Khanh Thiên Ương tự Tử Uy
Thiên Tâm tự Tử…
Giả như Đông chí Độn Dương, thượng nguyên, ngày Giáp Kỷ, giờ Bính Dần. Lúc ấy, Sáu Bính tới cung 8. Lấy Thiên bàn Giáp Tý Mậu Thiên bồng bay trên cung 8. Muốn đi về phương Đông Bắc thì hô tên tự thần là Tử Cầm, đi 60 bước, vào trong Thái âm. Lúc ấy lùi lại 2 cung là Thái âm ở cung 4 (nên án 9 cung bầy mà đi từ cung Khảm 1) tức thì hướng về tả, vào Đông Nam.
Xuất hành, hô tên thần 10 can trong 12 giờ
Giáp là Thần Thiên Phúc - Vương Văn Khanh.
Ất là thần Thiên Đức - Long Văn Khanh.
Bính là thần Thiên Uy - Đỗ Đường Trọng Khanh.
Đinh là thần Thiên Ngọc - Nữ Lý Du Điền.
Mậu là thần Thiên Vũ - Tư Mã Dương.
Kỷ là thần Minh Đường – Kỷ Du Khanh.
Canh là thần Thiên Hình – Châu Du Dương, Quách Dương Chi.
Tân là thần Thiên Đình – Cao Tử Cường.
Nhâm là thần Thiên Lao – Vương Lộc Khanh.
Quý là thần Thiên Ngục – Viên Cường, Viên Tử Quang.
Thân âm Sáu Giáp (Lục Giáp Âm thần)
Tuần Giáp Tý, thần âm Đinh Mão, đầu Thỏ thân người, tên là Khổng Lâm Tộc, tự là Văn Bá.
Tuần Giáp Tuất, thần âm là Đinh Sửu, đầu Trâu thân người, tê là Lương Khâu Thúc.
Tuần Giáp Thân, thần âm là Đinh Hợi, đầu lợn thân người, tên là Lục Thành, tự là Văn Công.
Tuần Giáp Ngọ, thần âm Đinh Dậu, đầu gà thân người, tên là Phí Dương, tự là Văn Thông.
Tuần Giáp Thìn, thần âm là Đinh Mùi, đầu dê thân người, tên là Vương Khuất Kỳ, tự là Văn Khanh.
Tuần Giáp Dần, thần âm Đinh Tị, đầu Hổ thân người, tên là Hứa Hàn Trì, tự là Cự Khanh.
Tên thần Độn Giáp Môn hộ
Khi xuất hành, hành sự nên dùng.
Tuần Giáp Tý: tên Môn là Tử Nghị. Tên Hộ là Công Tôn Tế. Cởi cáo mà qua, cát.
Tuần Giáp Tuất: Tên Môn là Thiên Khả. Tên Hộ là Từ Khả. Ngửa mặt lên trời, hô to mà qua, cát.
Tuần Giáp Thân: tên Môn là Tư Mã Quang. Tên Hộ là Thạch Chiến. Cởi áo mà qua, cát.
Tuần Giáp Ngọ: tên Môn là Thạch gia. Tên Hộ là Tử Khả. Cởi áo, nhẩy mạnh mà qua, cát.
Tuần Giáp Thìn: tên Môn là Công Tôn Thác. Tên Hộ là Tư Mã Thắng. Xõa tóc rối kết lại mà qua, cát.
Tuần Giáp Dần: tên Môn là Công Tôn Quang. Tên Hộ là Tư Mã Cường. Cởi đai lưng mà qua, cát.
Làm đại tướng, khi ra vào và hành binh, không cứ nhiều ít, phương đến nơi, tất có phép đỡ. Lấy 6 làm Pháp.
Đại tướng dàn sĩ tốt vòng bên tả, vào Thái âm, hô tên Thần Môn Hộ, chú rằng:
Giáp X….có gấp, mời Thần giúp ta, đỡ ta, che ta, giấu ta, đừng để kẻ địch là thương ta, đè ta, úp ta,, năm quân đẩy bẻ đừng để tới ta. Đương ta thì chết. Nhìn ta thì mù. Khiến kẻ địch mờ mờ lặng lặng. Nhìn ta thì mê hoặc, vì ta mà loạn hồn phách, kiến kẻ địch không dám ngóc dậy.
(Chú viết: Mỗ giáp, hữu cấp, thỉnh thần tá ngã, hựu ngã, nặc ngã, tàng ngã, vô sử địch nhân thương ngã, phủ ngã, cái ngã, ngũ binh thôi chiết, vô linh chí ngã. Dương ngã giả tử. Thị ngã giả vong. Sử địch nhân minh minh mặc mặc, thị ngã mê hoặc, vị ngã loạn kỳ hồn phách, sử địch nhân bất cảm khởi).
Niệm chú xong, khiến sĩ tốt đi thẳng vòng bên tả, đừng quay đầu lại, giấu ở dưới sáu quý. Như Giáp Tý thì Quý Dậu loại ấy.
Phép sáu Giáp âm phù
Kinh nói:
Làm đại tướng, khi ngăn giặc, nên làm sáu Giáp âm phù, khiến kẻ địch thân bị giết. Cho nên nói ngàn vàng không dạy người. Âm của sáu Giáp ở giữa khoảng trời đất. Đạo này linh lắm, cất trong tráp

 vàng, quý ở trong tâm, không truyền cho hạng phi nhân.(hết)

Không có nhận xét nào

Được tạo bởi Blogger.