Header Ads

KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN (Từ quyển 3 đến quyển 10)

KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – ( Quyển 3 đến quyển 10)




Sao Thiên Phụ (Đỡ trời)
Thiên Phụ đi xa gặp tốt lành.
Xây dựng chôn cất, phúc dày thành.
Lên quan, rời chốn, đều lành tốt.
Mừng của Người thêm, trăm việc hanh.
- Sao Thiên Phụ gặp giờ Tý: chủ người phương Tây mặc áo hồng kêu to đến trước làm ứng thì sau 60 ngày được thêm tiền vật của người âm Thương, khỉ hầu vào nhà, bình báu có tiếng kêu thì chủ thêm quan thăng chức, sinh con quý, 12 năm hưng vượng, cát.
- Gặp giờ Sửu: chủ có người cầm dao giết người, kêu, đánh, nhiều chó cắn nhau thì sau có trai nhỏ, gà đồng vào nhà, 60 ngày có thầy tăng đến cho vật. Phương Đông Nam có người đưa văn khế tới. Tin xa lại. Trong 1 năm thêm người. Quan lộc lên, rất cát.
- Gặp giờ Dần: có người công chức cầm vật bằng sắt đến và người thợ đem cho vật làm ứng thì trong 60 ngày thêm ruộng nương, 11 năm sinh con quý, đại phát.
- Gặp giờ Mão có người nữ cầm dù đến, thầy đồng cốt thổi tiếng còi làm ứng thì trong 60 ngày phát tài, thêm đinh, có sinh khí nhà vật. Lúa thóc tiền vượng. Nhân người gái có việc công mà thêm ruộng đất, tài sản.
- Gặp giờ Thìn: có dê trắng và cho vàng đánh nhau. Người bán lúa và người bán đấu gặp nhau, trẻ nhỏ áo trắng gào khóc, đàn bà có mang đến làm ứng thì trong 1 năm sinh con quý, tài sản phát lớn.
- Gặp giờ Tị: có 2 người đánh nhau, người gái ôm áo vải gió 4 mặt bốc lên, trẻ nhỏ gào khóc, trong 60 ngày được thêm tài sản của người phương Đông, quỷ thần vận lại, phát lớn.
- Gặp giờ Ngọ: thầy sư sãi cầm vật, người gái mặc áo hồng đi qua làm ứng thì 60 ngày có người quý cho vật lạ, thêm được vàng bạc từ 4 phương. Trong 1 năm được tài sản của bà góa. Phát lớn.
- Gặp giờ Mùi: có 2 con súc húc nhau, có người cầm da lông tới, sư sãi thành bầy đi qua làm ứng thì sau có người phương Tây tranh tiền tài. Trong 100 ngày thêm tiền của văn khế.
- Gặp giờ Thân: có người đau chân mang rượu tới, người mặc áo ba màu tới, có tiếng trống phương Tây Bắc làm ứng thì trong nửa năm sau rắn từ trong giếng ra. Người áo trắng cho trâu dê đến, được tiền của người đàn bà, phát.
- Gặp giờ Dậu: chủ có thư văn từ phương xa đến. Người phương Đông nói chuyện Hồ ly hoặc có người kêu gào làm ứng thì có người gái đem lửa tới. Trong 3 năm sau sinh con quý phát lộc, tài sản.
- Gặp giờ Tuất: chủ có 3-5 người tới tìm vật, thầy tăng thầy đồng đi song nhau làm ứng, 60 ngày gà lên cây gáy. Tin xa lại. Được tiền của đàn bà, trẻ nhỏ bị trâu làm thương, trong 1 năm nghiệm thấy.
- Gặp giờ Hợi: chủ có người tập tễnh đi tới, người áo xanh lại, nhà người phương Đông Bắc lửa cháy làm ứng thì trong 100 ngày sau mèo bắt chuột trắng. Trong 1 năm thêm ruộng nương.
Sao Thiên Cầm (chim trời)
Thiên Cầm rời chốn với đi xa
Ngồi bán, đi buôn ý đậm đà,
Cầu quý, dâng thơ, lòng hỷ hả,
Cất chôn, xây dựng cỏ lên hoa.
- Gặp giờ Tý: chủ có đàn bà mang thai lại, người áo tía đến làm ứng thì sau 60 ngày có văn nhân đến đem cho vật, trong 3 năm nhân võ mà được quan, ngoài 20 dặm tiền của lú thóc tràn trề, người nhà ngàn miệng ăn, tài vượng.
- Gặp giờ Sửu: bà có tang mang đồ bằng thiếc đến, trẻ nhỏ vỗ tay, thổi sáo đánh trống reo hò làm ứng thì sau nhân đánh bạc được tiền, hoặc đào hầm mà được tiền, trong 3 năm được tiền của trộm cắp mà nên giầu
- Gặp giờ Dần: chủ gà gáy, chó cắn, thầy đạo đội nón lá đến làm ứng thì sau thu văn khế ruộng đất của người âm Vũ, người nhà phát vượng.
- Gặp giờ Mão: chủ có gió lớn thổi từ phương Đông, chim tróc kêu ở mạn Tây, đàn bà mang thai đến làm ứng thì trong nửa năm sau được tiền bốc phát. Khởi nghiệp nhà.
- Gặp giờ Thìn: chủ người trong 9 giòng (cửu lưu nhân) đến tranh nhau, quạ đen kêu bên phương Đông làm ứng thì sau 60 ngày có thầy tăng và người cô độc đem cho vật đến.
- Gặp giờ Tị: chủ có đàn quạ khoang bay lại và thầy đồng đánh nhau, người quý cưỡi ngựa qua làm ứng thì trong 70 ngày sau chủ đàn bà sinh con quý, thành nhà ruộng đất rất vượng.
- Gặp giờ Ngọ: chủ có người áo trắng đến, chó ngậm hoa, gà rừng đánh nhau, gió mưa đến làm ứng thì sau có người tự lại, nhận đánh bạc, việc công mà được tiền, gà đen sinh con trắng, ruộng vườn phát vượng.
- Gặp giờ Mùi: chủ có người già khập khễnh gãnh hoa qua, hoặc người áo xanh mang vật đến làm ứng thì trong 60 ngày sau được thêm đồ vật bằng sắt của người âm Vũ, phát vượng.
- Gặp giờ Thân: chủ trên không có chim bay lên, thầy đồng mang vật bằng giấy lại làm ứng thì trong 100 ngày sau người gái đem ngọc thuý về, trong 1 năm sinh con quý, khởi nhà.
- Gặp giờ Dậu: chủ lửa bốc cháy ở phương Tây, người kêu, trống đánh ầm ỹ, làm ứng thì trong 1 năm sau sinh con quý, phát vượng.
- Gặp giờ Tuất: chủ phương Đông Bắc có tiếng chuông trống, có bé áo xanh mang giỏ đến làm ứng thì trong 60 ngày sau có chuột trắng lại, được tiền của của bà góa, phát đạt.
- Gặp giờ Hợi: chủ có tiếng cười của bà bên Tây Bắc, gió cuồng thổi mạnh làm đổ nhà gãy cây, người kêu gào làm ứng thì trong 100 ngày sau được đồ vật của người thợ sắt và thầy tăng làm ra.
Sao Thiên Tâm (Lòng trời)
Thiên Tâm luyện thuốc với cầu tiên
Buôn bán, đi xa, tốt lộc tiến,
Chôn cất, rời ngôi, lành tốt cả.
Muôn công ngàn việc, gặp đều nên.
- Thiên Tâm gặp giờ Tý: chủ có người đánh nhau, tiếng trống khởi ở phương Tây Bắc làm ứng thì sau 90 ngày có người mặc áo đỏ thu xếp để người âm Thương đem cho trục xe cũ bằng đồng. 12 năm sau ruộng tằm phát mạnh.
- Gặp giờ Sửu: có lửa cháy sáng ở phương Tây Nam, người chân khập khiễng mang vật đến cho, trong 6 ngày 2 con mèo tự lại làm ứng thì sau 40 ngày có người phương xa đem cho vật, thêm tài sản văn khế của người âm Thương.
- Gặp giờ Dần: chủ có chim nước thúy Kiều đến, tiếng chuông trống nổi, cô gái áo xanh xách giỏ đến làm ứng thì sau lửa cháy người.....(tiêu khấu), 40 ngày có việc công, 100 ngày thêm vàng bạc, nhặt được đồ cổ, thêm người thêm sản nghiệp. 3 năm được tiền của và sinh con quý.
- Gặp giờ Mão: chủ có bà chân khập khểnh đánh nhau, chó cắn và trống đánh, phương Bắc kiệu đến làm ứng thì trong 7 ngày sau thêm tiền của, trong 3 năm có trâu ngựa đến, tài lộc rất vượng.
- Gặp giờ Thìn: chủ mây khởi từ Tây Bắc, người áo xanh xách cá đến, người gái và thầy tăng đạo cùng đi làm ứng thì sau trong giếng khí bốc lên như mây, trong 3 ngày sinh con quý, sau chủ đỗ đạt giàu sang
- Gặp giờ Tị: chủ có người bế trẻ đến, người áo tía cưỡi ngựa đi qua, rùa leo lên cây làm ứng thì trong nửa tháng sau được thêm tiền của của người phương xa, người kiềng chân thu xếp để được thêm ruộng vườn, giống nuôi vượng. Người nữ trị nhà, bà góa ngồi trên nhà (tại đường).
- Gặp giờ Ngọ: chủ có gió mưa đến gấp, đến ngang đường, người gái mặc quần hồng mang rượu đến là ứng thì trong 60 ngày sau có người kiềng chân đem cho vật sống, trong 6 năm phát bốc tài sản.
- Gặp giờ Mùi: có người phép thuật cắp vật rỗng đi qua, ông già áo trắng đến làm ứng thì sau được văn khế đất nhà của người họ âm Thương: phát giầu.
- Gặp giờ Thân: chủ có thầy tăng đạo lại, chuông trống 4 mặt nổi, trăm chim đến kêu, người gái quần hồng đem cho rượu làm ứng thì sau 3 năm bà góa trị nhà.
- Gặp giờ Dậu: chủ có cô sư ni mang lửa từ Tây nam lại. Tiếng chuông trống phương Tây Bắc làm ứng thì trong 70 ngày sau được ngựa trâu, được tiền của quan phủ, tin xa đến.
- Gặp giờ Tuất: chủ có tiếng kêu giặc cướp ở phương Tây Nam, trẻ nhỏ dắt trâu đến làm ứng thì trong 100 ngày sau sinh con quý, gà sống lên tảng đá gáy, không cớ gì mà chó cắn, sau 3 năm thi đậu.
- Gặp giờ Hợi: chủ gà gáy chó cắn, ông già mặc áo mũ dạ đến tay cầm vật bằng sắt làm ứng thì trong 7 ngày sau có người ở xa lại nghỉ chân rồi để quên tiền vật mà đi.
Sao Thiên Trụ (Cột trời)
Thiên Trụ lánh mình giữ chẳng nên,
Ra đi, dựng trại hẳn không yên.
Bán buôn mọi việc đều không lợi,
Giở việc bày ra nguy thấy liền.
Sao thiên Trụ gặp giờ Tý, chủ có gió mưa lửa từ phương Đông dậy, người sứt môi đến làm ứng thì trong 60 ngày, rắn chó cắn người, dao nhọn đâm người, máu chảy, phá tài.
Gặp giờ Sửu có người thợ Mộc phương Bắc mang búa lại, trên cây sinh hoa vàng (Kim hoa) là ứng thì sau 60 ngày có thêm đồ vàng bạc của người âm Vũ, trong 3 năm có nạn cháy nhà, sản nghiệp bại, người đi, rắn vờn chó.
Gặp giờ Dần chủ chó sửa ngựa hí, thầy tăng đạo che dù tới, có mưa sấm, chim khách mừng kêu ầm ỹ làm ứng thì sau có giặc đến, luôn luôn kiện cáo phá tài, người gái đẻ non, chết.
Gặp giờ Mão chủ có người chặt cây, người trai đánh trống, ông già áo vàng vác bừa liềm đi qua làm ứng thì trong 60 ngày sau, gà mái mẹ, chó lên nhà, trong một năm có bà thiếu phụ chết. Hung.
Gặp giờ Thìn chủ có người từ phương Tây mang đồ vật bằng kim loại lại, làm ứng thì trong 7 ngày sau được thêm tiền vật của người âm, trong 3 năm phát lớn.
Gặp giờ Tị chủ có trâu đên kéo xe lợn lên núi, tiếng chiêng trống nổi làm ứng thì trong 60 ngày sau thêm tiền vật của người có họ âm Thương, trong 60 ngày có người gái xuống nước (hạ thuỷ), vật ngoài đồng vào nhà, trong một năm sinh con quý, triệu phát lớn.
Gặp giờ Ngọ chủ có người quý cưỡi ngựa đến, vào tháng Đông thì có tuyết, vào tháng Hạ Thu thì có quạ khoang bay kêu làm ứng, thì sau 5 ngày bà có thai mang tật làm lễ khóc lóc, trong 60 ngày được vật cổ bằng đồng ở bên nước, tiền hao hụt, miệng tiếng, Hung.
Gặp giờ Mùi chủ có người gái và thầy tăng đạo cùng đi, người phương Đông bắc cưỡi ngựa che lọng đi qua, làm ứng thì sau nhận người gái hồ ly mà thua thiệt, hung lắm.
Gặp giờ Thân chủ chim ưng bắt chim mà rơi xuống đất và người áo xanh mang lọng dù đến làm ứng, thì trong 3 năm sau, lửa trời đốt nhà cửa, nghiệp nhà đổ, hung.
Gặp giờ Dậu chuủphương Đông có một đoàn xe lớn nhỏ hơn mười chiếc đi làm ứng thì trong 70 ngày sau được đồ trang sức trên đầu của con gái, phát tiến.
Gặp giờ Tuất chủ có người con gái đem đồ bằng vải trắng đến, phương Tây Bắc có tiếng trống làm ứng thì sau về phương Đông bắc cây đổ vào người kêu la, sau 60 ngày rắn, bọ cạp cắn thương người, có bệnh ôn dịch, chết, lụn bại lớn, hung.
Gặp giờ Hợi chủ phương Tây dưới núi người kêu la làm ứng thì trong 100 ngày sau, nhân cứu lửa mà được tiền tài, lợi lớn.
Sao Thiên Nhậm ( Gánh trời)
Thiên Nhậm sao cát việc đều thông,
Tế tự, cầu quan, giá thú đồng.
Chém rắn, yêu, ma, rời chôn: tốt.
Bán buôn, chôn cất, dựng xây: mừng
Sao thiên Nhậm gặp giờ Tý chủ có mưa đêm, gà gáy bến nước, phương Đông Nam có người đeo dao đi qua, làm ứng, trong 100 ngày sau, chủ vợ ly dị, người có họ chấm thủy đến nhờ vả, ruộng nương hao hụt, sau rồi trai thì trộm cướp, gái hát xướng. Hung.
Gặp giờ Sửu chủ có bà áo xanh mang rượu tới, phương Tây có tiếng trống làm ứng thì nửa năm sau thêm tiền của của người phương lạ, một năm sau chim anh vũ vào nhà, nhân cãi cọ mà được tiền, sau 9 năm, chó mèo cắn nhau, chủ đổ bác (cờ bạc). Cát
Gặp giờ Dần, chủ người gái họp thành đội đến hoặc đem lửa lại, trẻ con vỗ tay cười lớn làm ứng thì trong 60 ngày sau, nồi đất có tiếng kêu, ông già chết, trong 100 ngày có thêm sáu giống nuôi, sau nhân người sứt môi tranh hôn nhân mà việc hỏng.
Gặp giờ Mão, chủ có ông già chống gậy đến, chim khách mừng kêu nhộn làm ứng, thì trong 7 ngày sau, có người đem cho đồ bằng đồng bằng sắt, trong 60 ngày nhân người gái mà mà được thêm sáu giống nuôi, cờ bạc được quan lộc đến. Cát
Gặp giờ Thìn, chủ có trai gái áo trắng cùng đi, hoặc bà mang thai bế bé nhỏ làm ứng thì sau có người đem cho vật sống. Rất cát.
Gặp giờ Tị, chủ có 2 chó tranh nhau, người quê gánh củi, người công chức che dù qua làm ứng thì sau 60 ngày được tiền của người phương ngoài, người phương Nam đem cho cá, trong 1 năm sinh con quý, phát giàu sang. Cát.
Gặp giờ Ngọ, chủ từ phương Tây có chim màu vàng bay lại, thầy tăng và nho sĩ cùng đi làm ứng thì sau 40 ngày được vật báu của người quý, người áo tía cho nhà ở, sinh con quý. Cát.
Gặp giờ Mùi, chủ có chim trắng từ phương Tây Nam bay lại, phương Bắc có tiếng chuông trống làm ứng mưa gió đến thì sau 7 ngày có người gái đem cho vật áo trắng, hoặc vật giấy trắng lại, chủ 6 giống nuôi hưng vượng.
Gặp giờ Thân, chủ gió mưa kéo đến, người đánh trống, thầy tăng mặc áo vàng làm ứng thì trong 7 ngày người gái đem lửa nấu thang. Hung.
Gặp giờ Dậu chủ thầy tăng, ni cô mang lửa từ phương Tây Nam lại, phương Bắc có tiếng chuông trống làm ứng thì trong 70 ngày sau được của cải của quan viên, thêm trâu ngựa, được tin mừng đến, rất cát, tiền tài đầy đủ. Rất lợi.
Gặp giờ Tuất, chủ có người gái ôm vải lại, Có tiếng trống phương Tây Bắc, cây phương Bắc làm thương người, làm ứng thì sau 60 ngày rắn cắn người. Hung. Nếu có người già và cậu bé con cùng đến thì giải họa thành phúc.
Gặp giờ Hợi, chủ có tiếng khánh phương Tây, người mang lửa kêu, làm ứng thì trong 1 năm sau nhân cứu lửa được tiền, lợi lắm./.
Sao Thiên Ương (Ương trời)
Thiên ương dựng gả xấu nào tầy.
Rời chôn, đi xa cũng chẳng hay.
Buôn bán, thăng quan, phòng chết chóc.
Cầu tiến, xây dựng trắng hai tay.
Tại sao Thiên ương lại xấu vậy
Ăn chơi, cùng trác táng thì lại hay
Sao Thiên Ương gặp giờ T‎ý, chủ có tiếng chuông lắc từ phương Tây Bắc lại, 3-5 người cầm lúa chặt cây làm ứng thì trong 1 năm sau chủ có người tàn tật đến nhờ vả, nhà phá, 3 năm tự vẫn chết, trẻ nhỏ nước sôi làm chết.
Gặp giờ Sửu chủ có thầy tăng, thầy đồng từ Đông Bắc đến, có tiếng thanh la đập làm ứng thì trong một tháng sau lửa cháy nhà cửa, trong 1 năm chó nói tiếng người, trăm quái đều hiện, chết toi, bại lớn. Hung.
Gặp giờ Dần chủ có binh mã từ phương Đông lại và người bắt cá mang lưới qua làm ứng, thì sau người con gái nhặt được tiền của trên đường, sau 60 ngày thêm ruộng vườn của bà góa. Sét đánh vào nhà. Hung.
Gặp giờ Mão chủ có người xách đèn lồng qua, hoặc mang gạo lại, sấm vang làm ứng thì trong 60 ngày sau được thêm vật báu của người gái. Phá nhà.
Gặp giờ Thìn chủ có người gái phương Tây Bắc mang vật lại, gà lên cây, làm ứng thì sau 70 ngày vật ngoài đồng vào nhà, phát lớn tài sản.
Gặp giờ Tị chủ có người ôm văn thư, che lọng dù đến, hoặc ôm vật bằng thiếc, phương Nam đem cho vật sống, trong một năm sinh con Quý, phát đạt.
Gặp giờ Ngọ chủ có người ở hướng Nam lại, mặc áo hồng hoặc cưỡi ngựa mang văn thư đến làm ứng thì trong 60 ngày sau bị gỗ đá đánh chết, và có người thắt cổ chết, việc quan tư hung.
Gặp giờ Mùi chủ có bà mang thai đi qua, phương tây bắc có tiếng trống làm ứng thì trong 60 ngày nhà chủ chết chìm, trong một năm ôn dịch, bại lớn.
Gặp giờ Thân chủ có bà mang thai khóc lóc, phương Tây có tiếng chuông trống, thầy tăng mang một vật qua làm ứng thì trong 70 ngày sau hung lắm.
Gặp giờ Dậu chủ phương Tây người làm ồn ào, chim khách kêu nhộn, người áo trắng đi qua làm ứng thì sau có bé gái nhỏ mắc tật ở chân. Trong 100 ngày nhân cãi cọ mà được tiền.
Gặp giờ Tuất chủ có người gái đem đồ vật bằng sành hoặc bằng sắt giận dữ chửi bới làm ứng thì trong 100 ngày sau nhân kiện cáo mà phá tài.
Gặp giờ hợi chủ có người gái cầm lửa lại làm ứng thì sau có người hủi cùi lên nhà nhờ vả, thân chết, phá tiền.
KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 4
Ba kỳ tới cung khắc ứng lành dữ.
A. Kỳ Ất tới cung Kiền, có người mặc áo vàng tới, hoặc gánh củi qua làm ứng, trong 60 ngày sau thêm tài sản của người âm Thương. Phát lớn.
Đến cung Khảm, có người mặc áo thâm tới hoặc có tiếng trống làm ứng, sau 7 ngày được tiền.
Đến cung Cấn có người mặc áo trắng đến, hoặc buộc vật đến, hoặc dùng lưới đánh cá đem lại làm ứng, trong một năm sau thêm người, nếu có người đem cho giống cầm nhà nuôi thì rất cát.
Đến Chấn, có người chài cá đến và 2 người nhỏ hướng lại làm ứng, thì trong 7 ngày thêm vật quý. Nếu nghe thấy ở phương Đông có người đã chết thi phát lớn.
Đến cung Tốn, có người áo trắng cưỡi ngựa qua, hoặc trẻ con cười đùa làm ứng, thì trong 3 năm sau sinh con quý, thêm tài sản bên phương Đông. Nếu thấy nhà bên Đông cháy hoặc có thắt cổ thì phát lớn.
Đến cung Ly, có người mặc áo màu làm ứng thì sau 30 ngày được tiền chớp nhoáng (hoạch tài). Nếu nghe thấy ở bên Đông có tiếng dao nhọn tự giết thì phát lớn.
Đến cung Khôn có 3-5 người đến làm ứng thì sau 7 ngày được tiền chớp loáng, 60 ngày thêm văn khế. Nếu nghe thấy ở phương Nam có sét đánh trâu, súc vật thì phát lớn.
Đến cung Đoài có 3-6 thiếu phụ đến hoặc chim khách thành quần làm ứng, thì sau 3 ngày hoặc 30 ngày được tiền của người âm Dốc, phát lớn hoặc sinh trâu ngựa thì phát tài chớp loáng.
B. Kỳ Bính đến cung Kiền có người khoác áo tới hoặc chim khách thành đội bay lại làm ứng thì trong một tháng sau thêm văn khế tài sản của bà góa. Nếu nghe thấy ở phương Nam có sinh đẻ thì phát vượng.
Đến cung Khảm có người mù mắt đến và phương Bắc có chim bay lại làm ứng thì sau 100 ngày, hoặc một năm nhân nước lửa mà sinh tiền, giàu to.
Đến cung Cấn có người mặc áo xanh đến, trẻ con khóc lóc hoặc đồng tử tay cầm tiền đồng, đồ vật làm ứng thì trong 7 ngày sau được thêm của báu, trong 1 năm thêm ngựa trắng, phát vượng.
Đến cung Chấn có đại tướng võ đeo quân khí tới. Nếu về Xuân mà nghe thấy tiếng sấm hoặc tiếng trống làm ứng thì trong chừng mươi hôm sau thêm được đồ cổ bằng đồng, trong một năm sinh con quý. Phương Bắc thấy có Rồng, sấm chấn động thì đại phát.
Đến cung Tốn có tiếng trống, ca nhạc làm ứng thì sau 7 ngày có người mặc áo nâu đến nhà được tiền chớp nhoáng. Nếu nghe thấy ở phương nam có chuyện quá sợ hãi, tất nhiên phát mau chóng.
Đến cung Ly có..................lại làm ứng thì 7 ngày hoặc 60 ngày thêm về đồng ruộng.......phát ruộng.
Đến cung Khôn có người mặc áo thâm tới, hoặc chim khách kêu ở phương Nam làm ứng, thì sau 2x7 ngày thêm tài vật của người phương Nam, hoặc trong một năm thêm trâu dê và tài sản của người hết dòng. Phát lớn. Nếu nghe thấy ở phương Đông có tiếng trống thì càng cát.
Đến cung Đoài có người chống gậy và cầm đồ đựng rượu với bế trẻ con làm ứng, lại có tiếng trống, tiếng nhạc thì 7 ngày thêm tiền. Trong vòng 1 năm thêm tiền và tài sản ở 2 phương Khôn Cấn. Phát lớn.
C. Kỳ Đinh đến cung Kiền, có người cầm dao nhọn tới hoặc dắt ngựa qua làm ứng thì trong 20 ngày hoặc 70 ngày, đào đất được tiền. Phát lớn.
Đến Khảm có người bế trẻ con lại, mây mưa từ phương Nam kéo lại, chim đen từ phương Tây lại làm ứng, trong 100 ngày có mừng rỡ về hôn nhân, rất cát.
Đến Cấn có người và bé con đánh chó làm ứng, thì sau 7 ngày hoặc 70 ngày thêm vật sống sắc vàng đen. Trong nửa năm thêm người, thêm ruộng vườn. Phát vượng.
Đến Chấn có 2 cô áo xanh đến hoặc đôi vợ chồng đến hoặc chim đen, trắng từ phương Nam lại làm ứng, thì trong 70 ngày sau thêm vật sống vàng trắng. Phát lớn.
Đến cung Tốn có tiểu nhi cưỡi ngựa qua. Phương Nam mây nổi, phương Bắc mưa giáng làm ứng thì trong vòng 1 năm sau, người ngã xuống nước chết chìm, đàn bà đẻ chết. Hung.
Đến cung Ly có người què cẳng hay mù mắt đến, với trẻ con cưỡi ngựa qua làm ứng thì trong 70 ngày sau, nhân lửa sinh tiền. Phát vượng.
Đến Khôn có người gái mặc áo xanh đến, với thầy tăng cùng đi hoặc trâu đen kéo xe làm ứng thì trong 70 ngày sau nhân nước mà phá tài đến bại.
Đến Đoài có người ôm văn thư sổ sách đến hoặc đuổi trâu, dê, nai làm ứng thì trong 60 ngày sau thêm ruộng đất đến giầu có.
10 can khắc ứng
Sáu Giáp Thiên đức quý nào tầy (tên là Thiên Đức, gặp ngày Dương, người trai áo xanh làm ứng thì trong 100 ngày có lộc, cát).
Sáu Ất thầy tu, chín phái hay. (tên Hiên. Là Thiên Quý chủ cao. Ngày Dương, Sao Dương là Quý nhân phương Nam. Ngày Âm, Sao âm là tăng đạo làm ứng thì trong 8 ngày hay 80 ngày có việc mừng sáng sủa, rất cát)
Sáu Bính rồng bay thấy đỏ trắng. (tên Thiên uy. Đi gặp người cưỡi ngựa đỏ trắng mặc áo xanh làm ứng thì trong 7 ngày hay 70 ngày thêm vật quý văn khế).
Sáu Đinh người ngọc điểm my mày. ( tên là Ngọc Nữ. Ngày Dương người gái lớn, ngày âm người gái trẻ làm ứng. 27 ngày sau thêm đồ cổ).
Sáu Mậu cờ dong chiêng trống đánh. (tên thiên Vũ. Ngày Dương nghe tiếng chiêng trống, ngày Âm nghe tiếng hát xướng, trong năm thêm tiền của nhà vợ).
Sáu Kỷ áo vàng áo trắng bay. (tên là Địa hộ. Ngày dương người nam áo vàng, ngày âm người nữ áo trắng hoặc một nam nữ cùng đi làm ứng, trong 60 ngày có người họ xa đến).
Sáu Canh tang tóc binh qua thây (là Thiên lợi. Ngày Dương sao dương là binh lính, ngày âm sao âm là người có tang làm ứng, trong 49 ngày có giấy tờ việc quan).
Sáu Tân chim chóc quạ kêu bay. (tên Thiên Tiên. Ngày Dương Sao Dương là người áo trắng, ngày âm sao âm là chim bay làm ứng, trong 1 năm nhân cãi cọ mà được tiền).
Sáu Nhâm động và mưa tuyết. (tên Thiên lao. Chủ sấm vang ngàn dặm. Ngày dương sao dương là người áo thâm. Ngày âm sao âm là người áo trắng làm ứng trong năm thêm miệng ăn).
Sáu Quý đàn bà chửa vui vầy. (tên Thiên tàng. Ngày dương sao dương là người chài cá. Ngày âm sao âm là bà có mang, ứng 60 ngày được kính đồng).
Tổng mục 8 môn khắc ứng
Cửa khai (cửa mở) khắc ứng
Cửa Khai muốn biết chiêm làm sao?
Đầy tớ, trâu, dê, trăm buổi vào.
Đất cát, hôn nhân,tài lợi lắm.
Cửa nhà rộng rãi, của đầy kho.
Có thêm sản nghiệp người thường tiến.
Tị-Dậu-Sửu năm thêm miệng chào:
Con cháu ơn vua nhiều tập ấm
Đai vàng áo tía gội ơn cao
Hỏi rằng: Cửa Khai thuộc Kim, là lúc khí trời khô héo,là thời muôn vật tận cùng lấy gì bảo là cát?
Cù tiên đáp rằng: Cửa Khai là kim, là lúc muôn vật héo hết. Sao không biết muôn vật héo hết mà có sống lại. Cửa Khai thuộc Kiền, trong Kiền có Hợi. Kiền nạp Giáp Nhâm (thu mầm ở Nhâm). Kim động thì thủy sinh, sinh mà sinh muôn vật, cho nên giúp sống cho muôn vật lúc mới đầu. Lại là Thiên Môn ( cửa Trời), cho nên cát. Nếu gặp được kỳ Ất (gọi là Thiên Độn = ẩn Trời) là được tinh Nhật che chở. Hợp với kỳ Bính, là được tinh nguyệt che chở. Hợp với kỳ Đinh là được Thái Âm ( âm cả) che chở, mọi việc mưu đều nên, danh chính ngôn thuận. Dùng việc công 100 cái thì được 100 thái. Dùng việc tư tất bị người khác làm tiết lộ thì lại gặp hung cừu. Ưa tới Kiền Đoài là được khí tướng (khí khá). Vào cung Khảm thủy, Kiền thủy sinh nhau như mẹ ngoảnh lại con. Vậy nên là cát. Ra đi 4 dặm hoặc 40 dặm, thấy lợn chuột các loài ấy, 60 dặm gặp qu‎ý nhân đi xe ngựa, có rượu thịt. Vào cung cấn là vào Mộ. Vào cung Chấn là Bách (bức bách), lại là 4 khí. Vào cung Tốn là phản ngâm. Vào cung Ly thì Kim bị Hỏa khắc, không lợi.
Ra cửa Khai, 30 dặm, gặp quý nhân, cát. 40 dặm gặp lợn ngựa, có rượu thịt, cát.
Có kỳ Ất tới thì thấy Qu‎‎‎ý nhân mặc áo hồng.
Có kỳ Bính tới, thấy ông già chống gậy.
Có kỳ Đinh tới, thấy người mang vật bằng tre gỗ thì ứng cát.
Động ứng
Cửa Khai tới Khai, 6 dặm, 16 dặm thấy quý nhân và đánh nhau làm ứng.
Tới Hưu, 1 dặm, 11 dặm gặp con vật 4 chân đánh nhau, người đàn bà mặc áo thâm và văn nhân nói chuyện công danh.
Tới Sinh gặp người âm với vật 4 chân, hoặc người dương nói chuyện tranh của cải.
Tới Thương 3 dặm, 13 dặm gặp người đàn bà đi xe ngựa, người theo thổi lửa.
Tới Đỗ 4 dặm, 14 dặm gặp người dương kêu gấp hoặc nhà sư làm ứng.
Tới Cảnh 9 dặm, 19 dặm gặp quý nhân cưỡi ngựa hoặc ôm văn thư làm ứng.
Tới Tử, 2 dặm, 12 dặm, gặp người già kêu khóc, hoặc đào đất chôn cất làm ứng.
Tới Kinh, 7 dặm, 17 dặm gặp anh trai em gái cùng đi làm ứng.
Tĩnh ứng
Cửa Khai tới Khai, chủ có mừng về tiền và của báu của quý nhân.
tới Hưu, chủ thấy mừng về tiền tài của quý nhân, lại chủ khai trương phố điếm, ăn mừng, đại lợi.
Tới Sinh chủ gặp quý nhân, mong cầu vừa ý.
Tới Thương chủ biến động, và việc thay đổi, đều không cát.
Tới Đỗ, chủ mất mát, in bản thư khế có hung nhỏ.
Tới Cảnh, chủ gặp quýnhân, nhân có việc văn thư, không lợi.
Tới Tử, chủ có việc quan ngại về việc quan tư, trước lo sau mừng.
Tới Kinh, chủ 100 việc đều không lợi.
Mệnh xem thì
Mệnh Kim Thuỷ được cát lợi. Mệnh Thổ bình ổn. Hai mệnh Hoả Mộc chủ quan tư, tật bệnh, phá tài, không lợi.
Đoán rằng:
- Cửa Khai trên Giáp, danh tiền đều được.
- Trên Ất, món tiền nhỏ, có thể cầu.
- Trên Bính, chủ quý nhân đeo ấn.
- Trên Đinh, tin xa tất đến.
- Trên Kỷ, công việc đầu mối không định.
- Trên Canh, đường sá, kiện cáo, mưu làm giữa hai ngả.
- Trên Tân, đường sá, người âm.
- Trên Nhâm, đi xa có mất mát.
- Trên Quý, người âm mất tiền, hung nhỏ.
Lại có ca rằng
Vào quan được lễ làm việc nên vui
Kiếm người được gặp, nhậm chức hay rời
Cầu tiền vừa ý, bệnh tật dễ lui
Ra đi gặp bạn, người vắng tới nơi.
Mở hàng trao đổi, lợi lộc mười mươi.
Quý nhân cầu gặp vừa ý vui cười.
Dựng xây muôn vật, đều được tốt tươi.
Cửa Hưu (Cửa lành) khắc ứng
Cửa Hưu rất thích tụ tiền nong,
Trâu ngựa heo dê tự đến đông,
Dựng gả phương Nam nơi xứng ý.
Thăng quan tiến chức ngự đài cung.
Lại thêm sản nghiệp người âm Vũ.
Yên ổn trong nhà tai họa không.
Hỏi rằng: Cửa Hưu thuộc Thuỷ, không vật gì không bị giết, nơi sương tuyết lạnh lẽo, chỉ toàn khí âm, là tinh của Huyền Vũ, ba sáng không chiếu tới, là cung quỷ tà náu hình, thì còn lấy gì làm cát?
Cù Tiên đáp rằng: Nước cửa Hưu là nơi âm cùng, thực tại là cung Bình Báu. Vạn vật lấy nước làm nước sinh sát để phát khí dương ra ngoài, lấy nước làm khí chết, để thu gom về gốc mà dấu tinh ở trong. Tý là nơi 1 dương vừa trở lại, cỏ cây gặp đó mà nẩy mầm, là cửa lật gốc về nguồn nên lấy đó làm cát.
Cửa Hưu hợp với Kỳ Đinh, dưới có Thái Âm là Nhân độn, được tinh hoa của sao che chở, trăm việc đều cát. Vượng ở cung chấn. Tướng ở cung Khảm, sinh ở Kiền Đoài đều cát cả. Ở cung Khôn, Cấn và giữa, bị Thổ khắc chế. Ở Tốn là vào Mộ, ở Ly là phản ngâm, đều không lợi. Nếu vào yết cửa quý, lấy hoà hợp thì trăm việc đều tốt. Ra đi 50 dặm gặp rắn chuột, vật đen trong nước làm ứng.
Tĩnh ứng:
- Cửa Hưu trên Hưu, cầu tài, đưa người, vào yết người quý đều cát, đến diện kiến quan trên thì rất lợi.
- Trên Sinh, chủ được tiền của của người âm, và đến người quý mưu vọng, tuy chậm mà cát.
- Trên Thương, chủ lên quan, vui mừng, cầu tài không được. Có người thân cũ chia tài sản. Biến động, không cát.
- Trên Đỗ, chủ phá tài. Mất vật không tìm được.
- Trên Cảnh, chủ cầu mong văn thư ấn tín, không tới, lại chiêu miệng tiếng. Hung nhỏ.
- Trên Tử, chủ cầu văn thư ấn tín, việc quan tư, hoặc tăng đạo đi xa, không cát. Xem bệnh, hung.
- Trên Kinh, chủ tổn tiền tài càng thêm và tật bệnh kinh sợ phá tài, không lợi.
- Trên cửa Khai, chủ khai trương cửa hàng, vào cửa quý, cầu tiền, việc vui mừng, rất cát.
Động ứng
Cửa Hưu trên Khảm, 1 dặm, 11 dặm, gặp vợ chồng người áo xanh ca hát làm ứng.
Trên Cấn, 8 dặm, 18 dặm, gặp bà mặc dưới đen trên vàng, hoặc người công lại áo thâm.
Trên Chấn, 3 dặm, 13 dặm gặp người thợ vác cây côn gỗ, hoặc người công lại áo thâm.
Trên Tốn, 4 dặm, 14 dặm, gặp bà áo xanh dắt trẻ nhỏ vừa đi vừa hát.
Trên Ly, 9 dặm, 19 dặm gặp ông công lại áo thâm cưỡi lừa ngựa.
Trên Khôn, 2 dặm, 12 dặm, gặp người mặc áo tang khóc lóc, có người áo xanh lục đi bên.
Trên Đoài 7 ddặm, 17 dặm gặp người áo thâm đạp chân, đàn bà dẫn trẻ nhỏ.
Trên Kiền, 6 dặm, 16 dặm, gặp người đánh…? Than thở, súc vật ganh nhau.
Đoán rằng:
- Cửa Hưu trên Giáp Mậu, tài vật hoà hợp
- Trên Ất, cầu mưu lớn không được, cầu nhỏ thì được.
- Trên Bính, Văn thư hoà hợp vui mừng.
- Trên Đinh, trăm kiện đều cát.
- Trên Kỷ, mờ ám không yên.
- Trên Canh, văn thư kiện cáo sau giải hoà.
- Trên Tân, tật bệnh chậm khỏi, mất vật không lấy lại được.
- Trên Nhâm, Quý, người âm kiện cáo liên miên.
Người xem mạng Thủy, mạng Mộc, lợi lắm. Mạng Kim thì bị hao thoát. Mạng Thổ, có tai tật. Mạng Hoả rất hung.
Năm tháng ngày giờ Bính Đinh Mậu Kỷ Tị Ngọ Thìn Tuất Sửu Mùi thì không lợi
Cửa Sinh ( Cửa sống) khắc ứng
Cửa Sinh xem được tốt tươi lành.
Người của cùng tăng, mọi vật hanh.
Tý Sửu năm nay, ba bảy tháng (tháng 3, tháng 7)
Trâu, dê, lừa, ngựa chật môn đình.
Lúa, tằm, vải vóc, đều dư dật.
Áo tái, con trai, chốn đế kinh.
Thêm ruộng phương Nam Thương khách (người âm Thương) tiến.
Cháu con hưởng lộc vị công khanh.
Hỏi rằng:
Cửa Sinh ở Cấn Thổ là phương Thiếu Dương, lấy gì bảo cát?
Cù Tiên đáp rằng: Cấn là Dần vị. Trời mở ở Tý, Đất giải ở Sửu, người sinh ở Dần. Khi Trời đến đó, ba Dương đều đủ, mở Thai. Do đó mà vạn vật đều sinh. Dương hồi khí chuyển, tình trời đất muốn sinh, rộng đến muôn vật mà đạo nhân sinh ra vậy, vì thế mà là cửa rất cát.
Cửa Sinh với Kỳ Ất, dưới là cung Cửu Địa, là Địa độn, là tinh Nhật che chở, cát. Hợp với Kỳ Bính là tinh Nguyệt che chở và là Thiên độn. Hợp với Kỳ Đinh là được tinh Sao che chở và là Nhân độn, trăm việc đều cát.
Được cửa Sinh, nên thăng quan, xây dựng, giá thú, cầu tài, chăn nuôi đều rất cát. Đi ra ngoài, 60 dặm gặp quý nhân xe ngựa, rất cát. Đến 2 cung Kiền Đoài là vượng. Đến cung giữa là tướng. Đến Khảm là Bách. Đến Chấn bị Mộc khắc chế. Đến Tốn là vào Mộ, đều không lợi. Sinh ở cung Ly, cát.
Tĩnh ứng:
Cửa Sinh trên Cấn, chủ đi xa, cầu tài sản, cát.
Trên Chấn, chủ thân bằng biến động, đường đi không cát.
Trên Tốn, chủ người âm âm mưu, phá sản, khônglợi.
Trên Ly, chủ người âm, trẻ nhỏ không yên, và việc văn thư sau cát.
Trên Khôn, chủ nhà ruộng, quan tư khó cầu
Trên Đoài, chủ người trên, tài sản, kiện cáo, bệnh tật đều lâu khỏi, cát.
Trên Kiền, chủ gặp quý nhân, cầu tài, phát lớn.
Trên Khảm, chủ nơi người âm mong cầu tài lợi, cát.
Xem thân mệnh thì người mệnh Hoả, Thổ, Kim rất lợi. Mệnh Thuỷ, Mộc thì không lợi, nhiều ách nạn. Phải kỵ năm tháng ngày giờ: Giáp Ất Dần Mão vì không lợi. Nếu là mệnh Nhâm, Quý thì chủ thủng trướng, hung.
Cửa Sinh trên Giáp Mậu: giá thú, cầu tài, yết người quý đều cát.
Trên Ất, chủ người âm sinh sản chậm, cát.
Trên Bính, chủ có cùng quý nhân, hôn nhân, thư tín.
Trên Đinh, chủ kiện cáo, hôn nhân, tài lợi đều đại cát.
Trên Kỷ,chủ được quý nhân gìn giữ, cát.
Trên Canh, chủ tài sản tranh kiện, phá sản, không lợi.
Trên Tân, chủ việc quan, tật bệnh,sau cát.
Trên Nhâm, chủ rơi mất tiền, sau được, trộm cắp dễ bắt.
Trên Quý, chủ hôn nhân không thành, còn cát việc khác đều cát.
Động ứng:
Cửa Sinh ra đi 8 dặm, 18 dặm, gặp ngựa xe quý nhân, hoặc người công lại áo đen. Có kỳ Ất thì gặp thỏ hay 2 chuột cắn nhau. Có kỳ Đinh thì gặp người bệnh chân, hoặc 2 người tranh tiền ầm ỹ. Có Đinh, gặp người lưới cá, phương này rất lợi, trăm việc đều lợi.
Cửa Sinh trên Cấn 8 dặm, 18 dặm, gặp người áo đỏ.
Trên Khảm, 1 dặm, 11 dặm gặp người áo đenvà người gánh tiền.
Trên Chấn, 3 dặm, 13 dặm, gặp người công lại cầm côn, hoặc đắp đất trồng cây.
Trên Tốn, 4 dặm, 14 dặm gặp người dắt vật màu sặc sỡ, đi và hát, và thở dài.
Trên Ly, 9 dặm, 19 dặm, gặp xe ngựa quý nhân, có nhiều người đi theo.
Trên Khôn, 2 dặm, 12 dặm gặp người có tang khóc lóc.
Trên Đoài, 7 dặm, 17dặm gặp người đang ngăn súc vật và có người nói chuyện về kiện cáo.
Trên Kiền, 6 dặm, 16 dặm, gặp xe ngựa người quý và có rắn cắn lợn.
KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 5
Cửa Thương khắc ứng
Cửa Thương thôi khỏi nói, Trời chôn người chết uổng. Chồng vợ gặp tai ương. Năm ròng tháng bệnh vương. Nhọt sảy đi không được. Tin đợi chờ không có. Chân què gẫy máu loang. Ngoài ra xấu đủ đường.
Hỏi rằng: Cửa Thương thuộc Mộc, chính gặp thời Xuân Phân, mầm non chồi ra, nên nói là cát mà lại bảo là hung, xin nói lại cho rõ.
Cù Tiên đáp rằng: Mộc cửa Thương gặp đúng khí Xuân Phân, tinh dịch từ trong mà ra, phát dương ra ngoài, đến nỗi gốc rễ tiết ra quá nhiều. Đó gọi là ngoài Hoa, mà trong Hư, không thắng nổi khó khăn. Huống chi tháng 2, mầm non không đương nổi sương lạnh, do đó mà gọi là Thương, mà là hung.
Cửa Thương được Kỳ thì chỉ có các việc đuổi bắt kẻ chạy trốn, trộm cắp, đi săn, đánh cá, đòi nợ, cờ bạc, vui đùa là cát. Nếu lên quan, ra đi, hôn nhân, buôn bán, xây dựng, chôn cất, đều không lợi. Rất hung.
Tĩnh ứng:
- Cửa Thương trên Chấn chủ biến động, đi xa bị gãy đau.
- Trên Tốn, biến động, mất mát, quan tư, cùm kẹp, trăm việc đều hung.
- Trên Ly, chủ văn thư ấn tín, miệng tiếng rên rỉ, bề bộn.
- Trên Khôn, chủ quan tư hung, ra đi rất kỵ, xem bệnh, hung.
- Trên Đoài, Chủ người than tật bệnh,lo sợ, làm người mối không lợi, hung.
- Trên Kiền, chủ có quý nhân khai trương. Có trốn chạy mất, việc biến động, không lợi.
- Trên Giáp Mậu, chủ mất mát, không được.
- Trên Ất, chủ cầu mau không được, còn cần phòng kẻ trộm tiền nong.
- Trên bính, chủ mất mát trên đường.
- trên Đinh, chủ tin đến không đích (thật).
- Trên Kỷ, chủ tiền tán, người bệnh.
- Trên Canh, chủ kiện giam bị hình, hung.
- Trên Tân, chủ vợ chồng riêng mang oán hận.
- Trên Nhâm, chủ tù, trộm liên miên.
- Trên Quý, tù ngục ngậm oan, có lý không thân ra được.
Động ứng:
Cửa Thương, ra 30 dặm gặp người tranh đấu, gặp người đánh cá hoặc súc vật đánh nhau, nên lánh đi, cát.
Cửa Thương trên Chấn, 3 dặm, 13 dặm, gặp 2 xe tranh nhau tiến quãng đường tắc.
Trên Tốn, 4 dặm, 14 dặm, gặp người công lại, và người chặy cây, và bà bế tiểu nhi đi qua.
Trên Ly, 9 dặm, 19 dặmgặp người mặc áo mầu cưỡi lừa ngựa qua.
Trên Khôn, 2 dặm, 12 dặm gặp đám tang và người con hiếu khóc lóc.
Trên Đoài, 7 dặm, 17 dặm, gặp người đánh nhau, người lùa súc vật, có một bà và thiếu nữ cùng đi.
Trên Kiền, 6 dặm, 16 dặm, gặp người phá đổ đường, dựng yên cửa, ghép ván, hoặc 2 con lợn cắn nhau.
Trên Khảm, 1 dặm, 11 dặm gặp bà già và trai trẻ cùng đi.
Trên Cấn, 8 dặm, 18 dặm gặp người đẳn cây hoặc đắp đất.
Xem thân mệnh: Mệnh Thuỷ, Hoả, Mộc thì cát. Mệnh Kim chủ bệnh. Mệnh Thổ hung. Việc quan tư bị hình trượng (phạt roi).
Cửa Đỗ khắc ứng (Cửa đóng)
Cửa Đỗ nguyên là gỗ, động vào, họa tiếp liền. Tháng năm Hợi Mão Mùi, gặp phải, ngục tù kề bên. Sống chết tan rời đó. Giống nuôi chết dịch ôn. Sai xương, đòn vấy máu. Hại đếncả đàn con.
Hỏi rằng: Cửa Đỗ là tượng Mộc, đến Hạ Đông là thời phồn thịnh, vốn là khí vượng, lấy gì mà bảo là hung?
Cù tiên đáp rằng: Cửa Đỗ dương Mộc, gặp Hạ Đông phát sinh ra ngoài, tân dịch tiết đi, khí dương can cực, một âm đang đến. Tính Mộc đến đó thì sức chùn lại, muốn thu gom thì không đủ sức thu gom, muốn sinh vượng thì lực đã cạn, lại không tiết được sức để nuôi cháu con ( dĩ thực= kỳ tử tôn), mà phải nấp giấu con ở nơi rắn chắc (kiên mật chi xứ) sợ rằng con có thể bị thương, cho nên gọi là cửa Đỗ (cửa đóng). Có hung nhỏ.
Cửa Đỗ là phương tàng hình, chỉ nên là nơi lánh tai nạn, lấp huyệt, đuổi bắt là cát. Các việc khác đều không lợi.
Tĩnh ứng:
- Cửa Đỗ trên Tốn chủ: nhân cha mẹ tật bệnh mà ruộng nương hao hụt. Hung.
- Trên Ly, chủ văn thư ấn tín trở cách, người dương trẻ nhỏ tật bệnh.
- Trên Khôn, chủ văn thư đất cát nhà cửa mất lạc, việc quan tư mất tài. Hung nhỏ.
- Trên Đoài, chủ trong nhà cửa lo lắng, sợ hãi, và có việc kiện cáo.
- Trên Kiền, chủ gặp quan trường quý nhân,. Mưu việc chủ trước phá tiền tài, sau cát.
- Trên Khảm, chủ cầu tiền có ích.
- Trên Cấn, chủ người dương trẻ nhỏ phá tài và ruộng nương, cầu tiền không thành.
- Trên Chấn, chủ anh em tranh nhau điền sản, phá tài.
- Trên Giáp Mậu, chủ mưu việc không thành. Cầu tiền ở nơi mất thì được.
- Trên Ất, mưu cầu của cải của người dương thì được. Chủ không minh bạch mà sau thành kiện cáo.
- Trên Bính, chủ mất văn khế.
- Trên Đinh, người dương mắc kiện tụng, giam giữ.
- Trên Kỷ, chủ riêng mưu hại người mà mắc lỗi (chiêu phi).
- Trên Canh, chủ nhân người gái mà đến kiện tụng mắc bị phạt hình.
- Trên Canh, chủ đánh người bị thương mà kiện cáo, người dương, trẻ nhỏ hung.
- Trên Nhâm, chủ việc gian dâm, trộm cắp, hung.
- Trên Quý, chủ trăm việc đều trở ngại. Bệnh thì không ăn.
Động ứng:
Cửa Đỗ, ra 30 dặm, gặp cô gái, cùng đi, ca hát. 60 dặm gặp người ác.
Kỳ Ất tới, gặp bà còn trẻ mặc áo mầu. Kỳ Bính tới thấy lửa bốc cháy nhà, hoặc vật có ngọn lửa nhỏ. Kỳ Đinh tới gặp người cỡi ngựa đeo cung nỏ.
Cửa Đỗ trên Tốn, trong 4 dặm gặp người đàn bà dẫn cháu mặc áo mầu lục.
Trên Ly, 9 dặm, 19 dặm gặp đàn bà chửa mặc áo mầu hoặc người công lại cưỡi ngựa đỏ.
Trên Khôn, 2 dặm, 12 dặm gặp người có tang khóc lóc.
Trên Đoài, 7 dặm, 17 dặm gặp hát xướng ầm ỹ (ca xướng là thanh), hoặc người nói chuyện về kiện cáo.
Trên Kiền, 6 dặm, 16 dặm gặp hát xướng và chó cắn lợn.
Trên Khảm, 1 dặm, 11 dặm, gặp hát xướng đùa nghịch, hoặc người áo thâm bế trẻ.
Trên Cấn, 8 dặm, 18 dặm, gặp người gánh tiền, hoặc tay cầm thức ăn kêu lên.
Trên Chấn, 3 dặm, 13 dặm gặp người thợ gỗ mang cây côn gỗ.
Xem thân mệnh: Người mệnh Hoả phát quý, mệnh Thuỷ phát phú. Mệnh Mộc bình yên. Mệnh Kim tật bệnh. Mệnh Thổ việc quan tư, hung. Ví là năm tháng ngày giờ Kim hoặc là năm tháng ngày giờ Thổ thì không lợi. Như gặp năm tháng ngày giờ Thuỷ Hoả thì cát.
Cửa Cảnh (Cửa Lớn) Khắc ứng
Cửa Cảnh nơi vương máu. Họa sinh nhiều lắm lắm. Ngoài hung và chết ác. Sống ly cùng chết biệt. Vào quan bán ruộng vườn. Con cháu khó tai ương. Giống nuôi thấy chịu thương. Xem được phải phòng phương.
Hỏi rằng: Cửa Cảnh thuộc Hoả, phương Nam, lệnh mùa Hạ, gặp đúng vực Ly minh, lấy gì làm hung?
Cù Tiên đáp rằng: Cửa Cảnh ở khí lệnh mùa Hạ, muôn vật lớn khoẻ, là thời sắp trở về già, gần cửa cung Khôn rồi. Lại là số thịnh của Dương, khí Trời Đất đến đó sắp có tình giết chóc. Tuy là phương trên sáng dưới cang, cũng không cát cả được (diệc bất toàn cát). Duy có lợi về việc văn thư, nhân đó mà bảo là hơi cát (thứ cát).
Dùng cửa Cảnh chỉ nên dâng thơ, hiến kế sách, tâu đối, tuyển đưa tướng sĩ là cát. Ngoài ra thì không lợi.
Tới Khôn, Cấn, Trung thì cát. Cung 3, 4 thì lành. Cung 1 phản ngâm. Cung 6, 7 bị bách, đại hung. Nếu được 3 Kỳ, nên đặt mưu lừa, phá trận, công lửa, ra hiệu lệnh, phong công thưởng tước, các việc như thế thì cát.
Tĩnh ứng:
Cửa Cảnh trên Ly, tờ văn trạng chưa được động, mới được chú ý đến. Trong có trẻ nhỏ mắc lo âu.
Trên Khôn, chủ việc quan, nhân kiện cáo vế việc tranh nhau ruộng nhà, nhiều than thở.
Trên Đoài, chủ người dương trẻ nhỏ tật bệnh, hung.
Trên Kiền, chủ người làm quan thăng chức, cát. Cầu văn thư ấn tín cũng cát.
Trên Khảm, chủ văn thư mất mát, tranh kiện không dứt.
Trên Cấn, chủ người âm sinh sản, mừng lớn. Lại cầu tiền rất vượng, lợi, người đi xa đều cát.
Trên Chấn chủ lấy vợ là người thân, trẻ nhỏ miệng lưỡi ganh nhau, hoặc trình bày nhiễu loạn.
Trên Tốn, chủ văn thư mất mát, tán tiền, sau bình.
- Trên Giáp Mậu, chủ: nhân tài sản kiện cáo, đi xa thì cát.
- Trên ất, chủ việc kiện không thành.
- Trên Bính, chủ văn thư cấp bách, hoả tốc không lợi.
- Trên Đinh, chủ nhân văn thư tờ trạng mà mắc lỗi.
- Trên Kỷ, chủ việc quan dây dưa.
- Trên Canh, chủ kiện người mà thành kiện mình (chủ tụng nhân tự tụng).
- Trên Tân, chủ người âm kiện cáo.
- Trên Nhâm, chủ giặc quấy luôn luôn (nhân tặc khiên liên)
- Trên Quý, chủ: nhân tớ trai gái mà đến (nhân nô tỳ đáo).
Xem thân mệnh: Mệnh Hoả có nạn lửa. Mạng Thủy thì rất hung. Mạng Kim tật bệnh. Mạng Mộc trung bình. Mạng Thổ thì giàu. Nếu gặp năm tháng ngày giờ Kim Thuỷ thì không lợi.
Động ứng:
Cửa Cảnh, đi ra 30 dặm gặp rắn lớn vằn đỏ. Ngoài 70 dặm, nhân nước lửa mà mất vật. nếu làm cưỡng thì chủ nhà bên Đông đụng đầu với trẻ nhỏ.
Cửa Cảnh trên Ly, 9 dặm, 19 dặm gặp người ôm văn thư, lại có lửa cháy, kinh sợ.
Trên Khôn, 2 dặm, 12 dặm gặp người tang khóc lóc, người mặc áo màu cưỡi ngựa.
Trên Đoài 7 dặm, 17 dặm, gặp đánh nhau tranh kiện, nên lánh.
Trên Kiền, 6 dặm, 16 dặm, gặp người trong thành đi lững thững, ông quan cưỡi ngựa.
Trên Khảm, 1 dặm, 11 dặm, gặp người gái khóc lóc cùng đi với người bán cá.
Trên Cấn, 8 dặm,18 dặm, gặp trẻ nhỏ lùa trâu, người vác tiền trong túi.
Trên Chấn, 3 dặm,13 dặm, gặp người gái mặc áo màu ngồi trên kiệu, hoặc cưỡi lừa ngựa.
Trên Tốn, 4 dặm,14 dặm, gặp bà già dắt cậu áo bé đen đi.
Cửa Tử ( Cửa chết khắc ứng)
Cửa tử nơi đây thật rất hung
Mạng người gặp phải hoạ sau lưng
Xoàng ra phải mất tiền hao của
Còn phải phòng tang tóc chập chùng.
Hỏi rằng: Cửa Tử thuộc Thổ, lại là phương của phần đêm sao hắc, khí Thu Đông, trời Đất tàn sát nặng nề. Từ đó mà đi, cửa hung. Sao hung, nên bỏ đi không dùng. Chả biết cửa này có còn dùng được việc gì không?
Cù Tiên đáp rằng: Cái hung của Cửa Tử là lúc Trời Đất mặc lòng ra oai tàn sát, cỏ mất màu sắc, cây trút rụng lá, cho nên là tượng hung. Nếu được Kỳ đến trợ thì những việc như đánh tội chết, bắt bớ, săn bắn cũng được tốt, đó là thuận theo lẽ trời là thế không bỏ được.
Tĩnh ứng:
Cửa Tử trên Tử, việc quan dăng mắc, ấn tín không có khí, hung.
Trên Kinh, nhân việc quan không lường mà lo ngại. Bệnh hoạn, hung.
Trên Khai, chủ gặp quý nhân, cầu việc văn thư, ấn tín, lợi lắm.
Trên Hưu, chủ việc cầu tài vật không cát. Nếu hỏi cầu ở nơi tăng đạo thì cát.
Trên Sinh, chủ việc tang, cầu tiền được, xem bệnh thì chết rồi lại sống.
Trên Thương, chủ mắc việc quan bị phạt đòn, hung.
Trên Đỗ…
Trên Cảnh, chủ nhân việc văn khế, ấn tín, tài sản, vào quan, trước quan giận, sau quan vui mừng, không hung.
- Trên giáp Mậu, chủ làm của gian.
Trên Ất chủ cầu việc không thành.
Trên Bính, chủ tin tức lo ngại.
Trên Đinh, chủ người dương già tật bệnh.
Trên Kỷ, chủ kiện, bệnh liên miên không dứt, hung.
Trên Canh, chủ người gái sinh đẻ, mẹ con cùng gặp hung.
Trên Tân, chủ trộm cắp,mất mát, không tìm lại được.
Trên Nhâm, chủ kiện người mà thành tự kiện mình, tự chiêu lấy lỗi (chủ tụng nhân tự tụng tự chiêu)
Trên Quý, chủ giá thú, việc đàn bà, hung.
Động ứng:
Cửa Tử ra đi 20 dặm gặp người bệnh, 30 dặm gặp việc tang tóc, đổ máu. Tuy có ba Kỳ cũng không cát. Có Kỳ Bính, gặp người ôm văn thư. Có Kỳ Ất, thấy việc chết chôn, vật quý hoặc giấy tờ. Có Kỳ Đinh, gặp cô gái có tang khóc lóc.
Cửa Tử trên Tử, 2 dặm, 12 dặm, gặp đàn bà khóc lóc, hung.
Cửa Kinh, 7 dặm, 17 dặm, gặp đám tang khóc lóc, hoặc súc vật chết.
Cửa Khai, 6 dặm, 16 dặm, gặp việc đào mã khóc lóc, hoặc súc vật đánh nhau gây thương.
Cửa Hưu, 1 dặm, 11 dặm, gặp người đàn bà áo xanh khóc lóc.
Cửa Sinh, 8 dặm, 18 dặm, gặp người con tang cha cầm con vật sống dẫy dụa.
Cửa Thương, 3 dặm, 13 dặm, gặp người khiêng quan quách.
Cửa Đỗ, 4 dặm, 14 dặm, gặp việc chôn cất, và giấy trát, vật màu sắc.
Trên cảnh, 9 dặm, 19 dặm, gặp người cùng cha mẹ khóc lóc, lui cát tiến hung.
Xem thân mệnh: chủ có hung, mặc tang, bệnh chết. Mệnh Thuỷ Mộc và năm tháng ngày giờ ấy thì rất hung. Còn ngoài ra thì bình
Cửa Kinh khắc ứng
Cửa Kinh chủ tranh kiện. Người chết bệnh dịch ôn. Năm Thìn, tháng Hỏa tới, thân mình hoạ đến bên. Duy giấy tờ tranh kiện, bắt bớ, cờ bạc: nên. Ngoài ra thì hung cả. Gặp Kinh là phải kiêng.
Hỏi rằng: Cửa Kinh thuộc Kim, gặp tháng 8 lệnh Thu, muôn vật đều già, Trời Đất ra oai tàn sát muôn vật, cũng nên đó chăng?
Cù tiên đáp rằng: Cửa Kinh, khí tàn sát, vật loại già cỗi, vốn không khí sống cho nên hung. Nhưng mà trời đất còn long ưa sống (hiền sinh chi tâm), không muốn giết hết mầm tỏi, mầm lúa đông, cũng chẳng đã mà giết. Cửa này tuy hung, mà những việc như trình thơ, dâng kế lừa, bắt bớ, đặt nghi, phục binh đều cát, cũng chẳng nên bỏ.
Tĩnh ứng:
Cửa Kinh trên Kinh, chủ tật bệnh, lo ngại, sợ sệt.
Trên Khai, chủ lo ngại, quan tư, kinh khủng, lại chủ quan trên thấy thì vui mừng, không hung.
Trên Hưu, chủ việc cầu tiền, nhân cãi cọ cầu tiền, việc chậm mà cát.
Trên Sinh, chủ: nhân đàn bà sinh lo sợ, hoặc nhân cầu tiền sinh lo sợ, đều cát.
Trên Thương, chủ bàn nhau cùng mưu hại người, việc tiết lộ kéo đến kiện cáo, hung.
Trên Đỗ, chủ mất mát, phá tài, kinh sợ, không hung.
Trên Cảnh, chủ kiện cáo không dứt, và trẻ nhỏ tật bệnh, hung.
Trên Tử, chủ: nhân trong nhà có quái lạ mà sinh tai tiếng.
- Cửa Kinh trên Giáp Mậu, chủ tốn tiền, tin có trở ngại.
Trên Ất, chủ mưu tiền không được.
Trên Bính, chủ văn thư, ấn tín. Sợ hãi.
Trên Đinh, chủ kiện cáo liên miên.
Trên Kỷ, chủ chó dữ làm thương người thành kiện.
Trên Canh, chủ trên đường dập gẫy, trộm cướp, hung.
Trên Tân, chủ người gái làm kiện, hung.
Trên Nhâm, chủ quan tư, tù giam. Bệnh thì rất hung.
Trên Quý, chủ bị trộm cướp, mất vật, không lấy lại được.

Xem thân mệnh: chủ giấy tờ, kiện cáo, tai nạn, việc quan, cãi cọ, đổ máu. Các việc ấy, ví gặp năm tháng ngày giờ Bính Đinh Tị ngọ, người xem không lợi.
Động ứng:
Cửa Kinh đi ra 30 dặm gặp đàn chim khách kêu, giống nuôi đánh nhau. 40 dặm thấy người bán tranh thì cát. Nếu không thì 70 dặm tất có hung dập gẫy, không thể đi trước được.
Cửa kinh trên Kinh 7 dặm, 17 dặm, gặp 2 gái thúc đẩy người bên bảo đánh. Quan tư.
Trên Khai, 6 dặm, 16 dặm, gặp quan xửngười dưới tranh kiện nhau.
Trên Hưu, 1 dặm, 11 dặm, gặp bà áo xanh nói chuyện về việc quan tư.
Trên Sinh, 8 dặm, 18 dặm, gặp người gái dẫn đồng tử dắt trâu, đứa trẻ cầm vật ăn.
Trên Thương, 3 dặm, 13 dặm, gặp trai gái la lối đánh thằng nhỏ. Nên quay về, nếu cưỡng đi thì xe gẫy ngựa chết, hung.
Trên Đỗ, 4 dặm, 14 dặm, gặp tăng đạo cùng đi hay trai gái cùng bàn luận.
Trên cảnh, 9 dặm, 19 dặm, gặp bà áo mầu nói chhuyện việc quan.
Trên Tử, 2 dặm, 12 dặm, gặp người gái khóc lóc và việc tang chết.
Phép Năm Giả
Cửa Cảnh, hợp Ba Kỳ: Ất, Bính, Đinh, dưới địa bàn là cung Cửu Thiên gọi là Thiên giả (Trời làm giả). Ất là Thiên Đức. Bính là Thiên Uy. Đinh là Thái Âm. Phàm gặp linh của Ba Kỳ, nên bầy tỏ công việc tiện lợi, tiến lên yết kiến cầu việc, đều rất cát.
Cửa Đỗ, hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, gọi là Địa giả (Đất giả), nên ẩn giấu, mai phục. Ba giờ này nên giấu tích, ẩn hình.
Cửa Thương hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Thái Âm, cũng gọi là Địa Giả, nên sai người làm gián điệp, mưu thám việc tư.
Lại như là cung Lục Hợp, cũng gọi là Địa Giả, nên trốn chạy, tránh lánh nạn.
Cửa Kinh, hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, gọi là Thần Giả , lợi việc chôn cất, ẩn nấp người không biết được.
Cửa Kinh, hợp với Lục Hợp, còn nói hợp với Sáu Nhâm, dưới địa bàn là cung Cửu Thiên, gọi là Nhân Giả, lợi việc bắt bớ, chạy trốn. Nếu là cách Thái Bạch Nhập Huỳnh Hoặc thì dưới đó tất bắt được.
Cửa Tử, hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, gọi là Quỷ Giả, lợi việc vượt chết, tiến độ. Còn nói tới cung Ba ẩn vượt, tức ba cửa cát ở địa bàn.
Trên đây là 5 phép Giả, tuỳ nghi việc mà dùng.
Phép Ba Trá
Phàm việc nên được ba cửa cát: Khai, Hưu, Sinh, tức không được Ba Kỳ: Ất, Bính, Đinh cũng cát, lại lấy thần âm tương trợ gọi là Ba Trá. Có địa bàn Cửu Địa, Thái Âm,Lục Hợp, ba thần trợ kỳ gọi là cửa Dương được trợ (dương môn đắc trợ), lại được cửa cát ở địa bàn tương trợ thì toàn cát.
Ví 3 cửa cát Khai, Sinh, Hưu hợp với Ba kỳ Ất, Bính, Đinh, không được Thái Âm, Cửu Địa, Lục Hợp ở địa bàn, gọi là có cửa không Dương, có Kỳ không Âm, mọi việc gặp thì cát 7/10.
Ba cửa Khai, Sinh, Hưu hợp với Ba Kỳ, dưới địa bàn là cung Thái Âm, lại được cửa cát, cửa cát này cần có sao cát tương trợ, gọi là Chân Trá (Dối đúng), lợi việc thi ân, ẩn trốn, tế, cầu đảo Tiên thì cát.
Khai, Hưu, Sinh hợp Ba Kỳ, dưới địa bàn là cung Lục Hợp, lại được cửa cát tương trợ, gọi là Hưu Trá (Dối Lành), nên luyện thuốc, cầu đảo, tế thần, cầu giải tai nạn, đều rất cát.
Cửa Khai, Sinh, Hưu hợp với Ba Kỳ, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, lại được cửa cát tương trợ, gọi là Trọng Trá (Dối nặng), nên thu hàng binh, thêm miệng ăn, nạp tài, tập tước (con cháu kế thừa tước của ông cha), bái thụ (lạy nhậm chức tước), thì đều cát.
Trên đây là cửa Trá, các việc như đi xa, buôn bán, hôn nhân, mọi việc đều rất cát.
KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 6
Phép 9 độn biến hoá
1/ Ba cửa cát Khai, Hưu, Sinh, trên thiên bàn Kỳ Bính, dưới Địa bàn là Kỳ Đinh, đều gọi là Thiên Độn (Độn trời), được tinh Nguyệt che chở, hoặc dưới địa bàn là Cửu Địa, Thái Âm, cũng gọi là Thiên Độn, có thể giấu vết ẩn hình. Nếu lại có Thiên Đức, Nguyệt Đức, Thiên Xá, Nhật Lộc, Hỷ thần thì trăm việc đều cát. Có Chu Tước lợi việc văn thư, tâu đối. Có Đằng Xà thì chủ nghi hoặc. Có Thanh Long thì sinh tài hỷ. Ví có bạch Hổ, Huyền Vũ thì chủ tật bệnh, mất mát, việc nhỏ không được toàn cát. Nếu luyện tế Đinh Giáp, gọi gió, thay mưa (hô phong hoán vũ), các việc như thế mà dùng Thiên Độn thì có thể toàn cát.
2/ Ba cửa Khai, Sinh, Hưu hợp kỳ Ất, dưới địa bàn là Cửu Địa, Thái Âm, Lục Hợp cung, đều gọi là Địa Độn (Độn Đất), được tinh Nhật che chở, có thể đặt phục, mưu làm, trăm việc đều cát. Nếu có Chu tước, nên đặt giấy tờ, làm màu lúa. Có mừng về tiền. Nếu có Bạch Hổ Được khóa cát Địa độn, nên xây dựng, khởi công, chôn cất, giấu diếm, các việc như thế đều rất cát.
3/ Khai, Hưu, Sinh, hợp với Ba kỳ, dưới địa bàn là Lục Hợp, gọi là Nhân Độn (Độn Người), cửa Sinh với Ba kỳ tới cung Thái Âm, và cửa Sinh, Kỳ Ất tới cung Cửu Địa, cũng gọi là Nhân Độn. Có Lộc ngày, Hỷ Thần, và Quý Thần, thì chủ có mừng về tiền, các việc hòa hợp. Có Chu Tước chủ kiện cáo được lý. Có Đằng Xà chủ các việc mộng ác, quỷ mỵ. Có Bạch Hổ kỵ đi thuyền. Có Huyền Vũ chủ có trộm cắp. Nếu có sao Thiên trụ, Thiên Phụ thì chủ mưa. Thiên Xung chủ có sấm. Thiên Ương chủ có chớp. Xem tật bệnh thì chủ nguy cấp.
4/ Khai, Hưu, Sinh hợp Kỳ Ất, dưới địa bàn là Sáu Tân mà rơi vào cung Tốn gọi là Phong độn (Độn Gió). Có 2 sao Thiên Xung, Thiên Phụ thì phương ấy có thể tế phong, nhưng không lợi cho việc đi thuyền, tin tức đến. Hành binh thì lợi đánh Hỏa công, thắng lớn.
5/ Khai, Hưu, Sinh hợp Kỳ Ất, dưới là cung Sáu Tân gọi là Vân Độn (Độn mây); cửa Sinh hợp Thiên Nhuế, Nhậm, tới cung Khôn; Ba cửa cát hợp Sáu Tân, tới cung địa bàn, Sáu Ất; hoặc Thiên Nhuế hợp cửa Sinh, dưới địa bàn là Cửu Địa ở cung Khôn; cũng có thể gọi là Vân Độn. Tháng Đông nên cầu mây, tháng Hạ nên cầu mưa. Nếu có Bạch Hổ thì chủ có mưa đá, mưa băng. Nếu có Đằng Xà, Chu Tước chủ nắng hạn, câu cưỡng thì chiêu lấy tai hoạ. Hành binh nên đi cướp doanh, kẻ kia không biết trước được.
6/ Khai, Hưu, Sinh hợp sao Thiên Tâm, Giáp Nhâm, Lục Hợp ở cung Khảm là Long Độn (Độn Rồng); hoặc cửa Hưu, Kỳ Ất trên Khôn; hoặc cửa Khai Lục Mậu trên Cửu Địa ở địa bàn; với cửa Hưu, Kỳ Đinh, dưới địa bàn là Cửu Địa ở cung Khảm; đều gọi là Long Độn. Phương này cầu mưa tất ứng, đánh thuỷ tất thắng. Lại được các Thần Thanh Long, Huyền Vũ, Thần Hậu, thì chủ mưa dầm, phải phòng kẻ gian tế trộm cắp.
7/ Cửa Khai, Giáp Thân Canh, dưới địa bàn là cung Đoài, là Hổ Độn (Độn Hổ); hoặc cửa Hưu, Kỳ Ất, dưới địa bàn là Sáu Tân ở cung Cấn, cũng đều gọi là Hổ Độn. Phương ấy nên tế phong, trấn tà, đuổi quỷ, yên nhà, đều cát. Nên đi thuyền, chiêu an, đánh hiểm, siết sào huyệt, lợi khách. Nếu yên doanh, phục binh, không dám nhìn thẳng.
8/ Cửa Khai, hợp Kỳ Ất, hợp sao Thiên Tâm, hoặc sao Thiên Cầm, dưới địa bàn là Cửu Thiên ở cung Kiền, gọi là Thần Độn (Độn Thần); hoặc cửa Sinh, Kỳ Bính hợp hai sao Cầm, Tâm, dưới địa bàn là cung Cửu Thiên, cũng gọi là Thần Độn. Phương này nên khu thần, sai tướng, thi kế, thần tất trợ ngầm. Hành binh nên làm thần tướng đắp trong ba quân, thần tất lên. Lại nên tế lễ, thần tất về nương. Nếu có Bạch Hổ, Lôi Sát, Kiếp Sát thì chủ sét đánh thương.
9/ Cửa Hưu, Thiên Phụ, Sáu Tân, dưới địa bàn là Kỳ Đinh, ở cung Cấn, gọi là Quỷ Độn (Độn Quỷ); cửa Sinh, Thái Âm, dưới địa bàn là Kỳ Đinh; hoặc cửa Sinh, Cửu Địa, dưới địa bàn là Kỳ Đinh, cũng đều gọi là Quỷ độn, nên dò đường, xét xứ giặc, thực hành mưu gian, tung tin đồn, kẻ kia không xét nổi mà lòng quân đâm nghi hoặc. Trong nhà có quỷ, nên thư phù mà trấn thì cát. Các việc khác không lợi.
Quyết Siêu Thần Tiếp khí (Vượt thần nối khí)
Về Nhuận Kỳ, có quá 9 ngày sau rồi đặt nhuận, có quá 14 ngày mà đặt nhuận, đều có lệ
Đại ước thì khí đến trước, Tiết chưa đến, trước dùng Khí gọi là Siêu thần. Tiết đến trước mà Khí chưa đến gọi là Tiếp khí.
Siêu thần, để như cũ, dùng khí đương cục (nghĩa là vẫn khí cục cũ), mà không dùng Tiết. Đợi Siêu quá 9 ngày thì mới dùng Tiết, gọi là Siêu thần. Tiếp khí tất phải ở trước tháng nhuận. Siêu thần phải ở sau tháng nhuận. Trước tháng nhuận, khí tất đến trước. Sau tháng nhuận, tiết tất đến trước. Khí đến trước tất trước dùng khí. Tiết đến trước thì còn chưa dùng Tiết. Siêu thần Tiếp khí đã chỉ rõ ràng vậy.
Ví năm nhuận vào tháng giêng, 2, 3, 4, thì đặt một hậu khí nhuận ở Đại Tuyết. Năm nhuận vào tháng 5, 6, 7, 8 thì đặt một hậu khí nhuận ở Mang Chủng. Đó gọi là quá còn không kịp (quá do bất cập), không có khí trung hòa mà phải đặt nhuận. Gom lại thì cứ Giáp kỷ của Tý Ngọ Mão Dậu là Thượng Nguyên (nguyên trên), của Dần Thân Tị Hợi là Trung Nguyên (nguyên giữa), của Thìn Tuất Sửu Vị là Hạ Nguyên (nguyên dưới), đó là định lệ.
Lại có nói: Tiết và Khí cũng làm trung hoà. Trước giữa tiết, gặp ngày Giáp Kỷ của Tý Ngọ Mão Dậu, gọi là quá, quá thì phải tiếp khí. Sau giữa tiết thấy Giáp kỷ của Tý Ngọ Mão Dậu gọi là không kịp (bất cập), không kịp thì phải Siêu thần. Tóm lại thì lấy 30 ngày là một tháng (bản nguyên viết là 33, ở đây bỏ số 3 sau). Phải đặt nhuận, chẳng qua đạo Âm Dương nở mòn vậy.
Chương luận: (9 Thần)
Trực phù (phép Tôn) là đầu của các thần (chư thần chi nguyên thủ), là cổ cánh (linh tu) của sao. Vì thế mà gọi là Trực phù. Thể Thần thuộc Hỏa. Nơi nào thần đến thì trăm ác tiêu tan, mọi hung biến hết Là thần rất cát. Có nợ...? Thái bạch kim tinh kỵ vào Mộ. Gặp vậy ở nơi cát thì không cát, ở nơi hung càng hung. Trời khởi từ Giáp, Đất khởi từ Tí cho nên gọi là bậc Tôn của muôn nhóm (vạn vảng: ). Nói lên (cử: ). Giáp Tí là 6 giáp ở trong, cho nên gọi tên là Trực phù.
Cửu Thiên (Chín trời): là Kiền kim.Thể này thuộc kim. Kiền nạp Giáp Nhâm, tính cương mà ưa động. Chủ những việc gọi đúng lời xuôi (danh chính ngôn thuận), gặp đúng lệnh thì không gì trở ngại, là thần rất cát. Nếu được Cửa được Kỳ thì vạn phúc gom vào. Ví không được Kỳ thì cũng không hung. Sợ vào Mộ thì sức yếu đi. Trời bắt đầu từ Giáp, từ Giáp đến Nhâm (bản nguyên viết là Thìn), Số được 9 cho nên gọi là Cửu thiên.
Cửu Địa (Chín đất): là thể Khôn. Thần này ưa tĩnh. Chủ các việc mềm dẻo, kính cẩn bề ngoài, lại nắm quyền sinh sát. Là thần nửa hung, nửa cát. Sợ khắc chế, kỵ vào Mộ. Xuân Hạ thì sinh. Thu Đông thì giết. Giữ quyền hành bà Hậu nội cung vua. Khôn nạp Ất và Quý. Từ Ất đến Quý được số 9 cho nên gọi tên là Cửu địa. Nói đến Ất sửu là có 6 Ất ở trong vậy.
Chu tước (Sẻ non): là thần Hỏa phương nam, quản cỏ khắp đồng ruộng của vùng trời. Nắm giữ quyền văn minh, tấu đối, miệng lưỡi, giữ chức vụ văn thư. Được đất (đắc địa = ở nơi tốt không có trở ngại) thì có mừng về văn thư ấn tín. Không được thời thì tai tiếng cãi cọ, nhiễu loạn, cát hung như vậy. Ngôi ở Bính. Bính nạp Cấn thổ, vượng tướng ở Ly. Ở trời là Thần chim đỏ (Xích Điểu chi thần) thuộc Bính hỏa. Nói đến Bính Dần là có 6 Bính ở trong cho nên gọi là Chu tước.
Đằng xà (rắn vọt): là khí Đinh Hỏa, mà thực ra thì thuộc âm thổ. Đoài nạp ở Đinh Tị. Thần này tính mềm dẻo mà miệng độc. Chuyên giữ các việc sợ hãi, quái lạ, lửa yêu, cổ quái. Ngôi trấn phương Tốn. Còn tên là Ngọc Nữ. Độn can là thần 6 Đinh, 6 Giáp, tức là thần âm rất lệnh. Nói đến Đinh Mão là có sáu Đinh ở trong vậy. (Mục này bản nguyên viết là Câu trận).
Câu trận (móc câu): là Thổ dương ở trung ương. Thần này tính ngoan, ngạnh. Giữ các việc đất cát, kiện cáo. Từ Giáp đến Mậu số được 5. Từ Tí đến Thìn số cũng được 5. Cấn nạp Bính, Khảm nạp Mậu, phối ở Đông nam. Kinh nói: “ Biết ba, tránh năm” là khí hung ác giả dối (hung ngoan chi khí), không nên tới. Ngồi trấn ở Cấn, cho nên gọi tên là Câu trận. (Lánh 5 là 5 can phần Âm: Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý và 5 cửa hung là Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh).
Lục hợp (Sáu hợp): là khí hóa của Giáp mộc, là mộc âm ở phần Đông. Thần này tính hòa bình, chuyên giữ các việc về hôn nhân, giao dịch, manh mối, hòa hợp. Làm em gái của sáu Giáp, gả cho Canh kim là vợ. Có thai với Canh, rồi trở về nhà. Ngôi trấn phương Đông. Chấn nạp Canh. Từ Giáp đến Kỷ số được 6 cho nên gọi tên là Lục hợp.
Bạch Hổ (hổ trắng): là Canh kim. Oai thống phương Tây. Thần này ưa giết, chuyên giữ các việc binh qua, sát phạt, tranh đấu, tật bệnh, chết chôn, đường xá. Kỷ nạp ở Canh Kim. Tốn là Phong (gió). Phong theo ngôi Hổ. Trấn ở phương Tây. Từ Giáp đến Canh số được 7 cho nên gọi là Bạch Hổ.
Huyền Vũ (Rùa xám): là tinh của nước. Thống giữ khí phương Bắc. Thần này ưa âm mưu làm hại, chuyên giữ các việc trộm cắp, trốn chạy. Nước thì sắc đen, được đất vàng (hoàng thổ) ở trung ương mà thành cho nên gọi là Huyền Vũ.
Thái âm (Âm cả): là Kim âm phương Tây. Thần này ưa giấu diếm, mờ mịt, che chở, vợ và thiếp, các việc ấy. Ly nạp ở Tân, phối với phương Tây. Ngôi trấn cung Đoài. Đoài là gái nhỏ (thiếu nữ). Âm Dương đến đó thì không nảy nở được nữa. Từ Giáp đến Quý là số hết. Từ Tí đến Dậu khí đó cùng cho nên tên là Thái âm.
Thái Thường (Quá thường): là khí hóa của năm hành. Thần này ưa ca hát, ăn uống, chuyên giữ các việc yến tiệc, tế lễ, áo mũ, dê con, nhạn bay (cao nhạn). Thần này theo Thiên Cầm (chim trời) đi chơi khắp phương. Gặp Hỏa theo Hỏa, gặp Kim lại theo Kim, gặp nước theo nước, gặp Mộc theo mộc, gặp Thổ thì theo Thổ. Hợp với cả 5 thể. Tính thần Không thường, cho nên gọi là Thái thường. Đi với cửa cát thì cát, mà đi với cửa hung lại hung. Chủ mặc màu sắc, mặc tang biến đổi (Câu này không có nghĩa).
Hai mươi bốn khí
Tháng giêng : Lập xuân, Vũ thủy (Dựng xuân, mưa nước).
Tháng hai : Kinh chập, Xuân phân (Trung nở, giữa xuân).
Tháng ba : Thanh minh, Cốc vũ (Trong sáng, mưa thóc).
Tháng tư : Lập hạ, Tiểu mãn (Đang hè, gần tròn).
Tháng năm : Mang chủng, Hạ chí (Lên đồng, đến hè)
Tháng sáu : Tiểu thử, Đại thử (Ấm áp, Bức nóng).
Tháng bảy : Lập thu, Xử thử (Dựng thu, Dịu nắng)
Tháng tám : Bạch lộ, Thu phân (Nóc trắng, giữa thu).
Tháng chin : Hàn lộ, Sương giáng (Móc lạnh, Sương rơi)
Tháng mười : Lập đông, Tiểu tuyết.
Tháng mười một : Đại tuyết, Đông chí.
Tháng mười hai : Tiểu hàn, Đại hàn.
Ngày cát Thiên đức
Giêng Đinh, Hai: không Thân. Ba: Nhâm, Bốn là Tân. Năm: Kiền, Sáu: Giáp ngự. Bảy: Quý, Tám: Cấn lân. Chín: Bính, Mười: tìm Ất. Mười một: Tốn, Cuối: Canh dồn.
Ngày cát Nguyệt đức
Tháng giêng, 5, 9 là Bính. (Hỏa cục nên là Bính)
Tháng 2, 6,10 là Giáp. (Mộc cục nên là Giáp)
Tháng 3, 7, 11 là Nhâm. (Thủy cục nên là Nhâm)
Tháng 4, 8, 12 là Canh. (kim cục nên là Canh)
Phép Năm Phù (Ngũ Phù Pháp)
Ngũ Phù thuộc thần cát, nên đến yết người Quý.
Thiên tào thuộc kim, giữ việc giấy tờ kiện cáo.
Địa Phù nửa cát, nửa hung, thuộc Thổ, chủ úp, lánh.
Phong bá, Lôi công, thuộc Mộc chủ kinh khủng.
Vũ sư, dương thuỷ, chủ mưa, trời đen, hoặc cuồng phong, mưa bụi (âm vũ).
Phong vân thuộc âm Mộc chủ trời râm )bán âm.
Cam phù ( còn gọi là Đường phù) thuộc kim chủ về tiền, cát.
Quốc ấn thuộc kim, chủ thăng lên.
Thiên luân thuộc Mộc, chủ trở cách.
Địa tặc thuộc âm thổ chủ lật lọng, phản phúc.
Thiên tặc, âm thủy chủ mất trộm.
Trên đây dùng Tướng tháng (Nguyệt tướng) gia trên giờ xem, đi thuận đến Lộc của ngày xem thì khởi Ngũ phù. Như ngày Giáp thì Lộc ở Dần, thì đến Dần khởi Ngũ phù, Mão là Thiên tào, Thìn là Địa phù, Tị là Phong Bá, Ngọ là Lôi công, cứ như vậy mà suy. (Cần tham khảo thêm Lục Nhâm để hiểu hơn).
Hoàng ân sát (yêu ơn vua)
Tháng 1-5-9 (Dần, Ngọ, Tuất-Hỏa cục) ở Tuất.
Tháng 2-6-10 (Hợi, Mão, Mùi, Mộc cục) ở Sửu.
Tháng 3-7-11 (Thân, Tý, Thìn, thủy cục) ở Thìn.
Tháng 4-8-12 (Tỵ, Dậu, Sửu, kim cục) ở Mùi.
Nguyệt Yểm sát (Yêu tháng chìm)
Tháng giêng tại Tuất, rồi nghịch hành tháng 2 tại Dậu, tháng 3 tại Thân, tháng tư tại Mùi, tháng 5 tại Ngọ, cứ thế mà suy.
Xung nhau là đối, không dùng được.
Bài ca Hồng Phạm Ngũ hành (Số mục quái)
Xem can chi mà biết được số lượng bao nhiêu người, bao nhiêu vật, bao nhiêu thời gian...gọi là số mục quái.
Giáp, Kỷ, Tý, Ngọ thuộc số 9
Ất, Canh, Sửu, Mùi thuộc số 8.
Bính, Tân, Dần, Thân thuộc số 7.
Đinh, Nhâm, Mão, Dậu thuộc số 6.
Mậu, Quý, Thìn, Tuất thuộc số 5.
Tỵ, Hợi thuộc số 4.
Ca rằng:
Kích đạo, Bạch đạo và Hoàng đạo,
Không tránh ngàn năm nghiệm chẳng hay.
Ngoài ba Đạo ấy là thần cát.
Thêm Cửa Kỳ vào tốt lắm thay.
Phép quyết ẩn lánh trong 2 Độn, tất chưa thành đạo (.....). Trong phép Độn Đạo thì Kích, Bạch, Hoàng ba đạo nên tránh cẩn thận. Nếu không, tuy có hợp 3 Kỳ, cửa cát cũng không thông, khó tránh hoạn.
Hình đồ 9 Đạo, 8 tiết.
Hình đồ nơi tên của Người Thần sáu Giáp trên trời.
Đây là 5 giờ Dương: Giáp ất Bính, Đinh, Mậu, là giờ Thần tại Trời, cần biết. Giờ âm cũng theo như đây.
(Vòng ngoài cùng tức vòng thứ 5. hai thần Bạch hổ, Huyền vũ, thì bản nguyên viết là Câu trận, chu tước. Vòng thứ 2, hai cửa Khai, Hưu thì bản nguyên viết là Hưu, Khai).
KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 7
Luận về Chủ Khách xem nghiệm
Luận rằng: Kỳ Cửa mà ứng, có trước sau, có Chủ Khách, lấy Đó Đây, lấy Người Ta mà suy.
Nét chính thì Thần Kỳ ứng việc lúc Sơ. Sao ứng việc vào khoảng giữa. Cửa ứng việc lúc cuối. Theo thứ tự như thế mà suy thì rõ, không thể không ứng nghiệm như thần.
Như Ta đi tìm người thì Ta là Khách, Người là Chủ. Lấy Sao trên Thiên bàn là Ta, Sao dưới Địa bàn là người. Như người đến tìm ta thì Người là Khách và Ta là Chủ. Lấy Sao trên Thiên bàn là Người và Sao dưới Địa bàn là Ta.
Lại nên xem Người đến sinh ta hay ta đi sinh Người. Người sinh ta thì ích cho Ta. Ta sinh Người thì ích cho Người. Người khắc Ta thì tổn thất thuộc về Ta. Ta khắc người thì tổn thất thuộc về Người.
Lại lấy ngày Âm sao Thiên bàn là Ta. Ngày Dương sao Địa bàn là Ta, tỷ hòa nhau thì không có tổn ích. Nên theo đấy mà suy.
Kỳ môn nói: có Dương không Dương, Đức lộc vào cửa. Không Dương nửa cát. Có Dương vui mừng.
Thần Dương này là chỉ cửa Trực Sử bay. Giờ ấy gặp được Kỳ Đinh tức là Thần Dương được trợ. Như Giáp Tý Trực phù thì Đinh Mão là Thần Dương. Giáp Tuất Trực phù thì Đinh Sửu là Thần Dương.
Kỳ môn xem việc – 27 điều.
Án mục bài ca Quý nhân ở Kỳ môn cũng giống như ỏ Lục Nhâm. Chỉ cần sau Đông chí được Quý Âm, sau Hạ chí dùng Quý Dương là không dùng trong Kỳ môn. (câu này nói về cách an Quý nhân Quẻ Năm của Lục Nhâm thì không dùng trong Kỳ Môn).
Bàn trên tượng Trời (chỉ 9 sao hay Tinh), bàn giữa tượng về người (nói 8 cửa), Bàn dưới tượng Đất (chỉ 9 cung). Bàn trên là Sao (Tinh), bàn giữa là Cửa (Môn), bàn dưới là Cung.
Phép dùng:
Khi xem cát hung, đầu tiên là xem nặng về 9 Sao, vì Sao thì ở Thiên bàn, cát hung thì do thiên bàn đã định sẵn. Sao (Tinh) khắc Môn thì cát, Môn khắc sao thì hung.
Khi ra đi hoặc tới, lánh thì nên xem nặng về 8 Cửa, vì 8 Cửa là Bàn Người (Nhân bàn), cát hung thì do người tự chiêm lấy. Thấy Môn khắc Cung thì cát. Cung khắc Môn thì hung, vì làm thương Người cho nên hung vậy.
Khi xây dựng, chôn cất, rời đổi, thì xem nặng về 9 Cung. Lấy 9 Cung là Địa bàn, các việc rời đổi, đều theo Địa mà khởi. Cho nên Môn Cung sinh nhau thì đều cát, khắc nhau thì đều hung. Đều lấy ý như trên mà suy thì những việc về Trời Người, không gì là không thấy suốt. Ở đây bảo cho người biết cách mà dùng.
Truyền rằng: Kỳ môn đã chia 3 bàn (Thiên, Nhân, Địa). Trên dưới 6 bàn đều có 1 can, cung giữa địa bàn có kỳ nghi. (chú ý: Câu trên đây dịch đúng theo nguyên bản, nghe ra cũng lủng củng lắm. Vậy nên thích nghĩa như sau: Kỳ môn đã chia thành 3 bàn. Trên dưới 6 cung đều có 6 can (tức Lục Nghi), trên dưới 3 cung đều có 1 kỳ (tức Tam Kỳ). (Câu này muốn nói đến Lục nghi – Tam Kỳ thiên bàn và địa bàn).
Sánh hợp trên và dưới (xem xét trên dưới), xem có thành cách hay không thành cách gì, thì hiển nhiên là biết. Như Giáp trên Bính, Ất trên Tân.v.v.v. Duy dưới sao chủ trong Môn bay đều ngầm dấu 1 can là phép Trực Sử trên Chi giờ.
Lại giữa đầu Trực phù khởi số đến Can giờ thì ngừng, tức là từ Giáp đến Ất, đến ....Quý. Để cầu Chi giờ, thì trong 8 môn cũng có 1 can, gọi là Can bay (Phi can). Can này không lộ ra ngoài cục diện, mà ở số ngoài bàn trên dưới của Chi giờ. Giờ thì dùng Giáp Ất... bày ra mà được, cho nên gọi ngầm dấu, như ẩn như hiện, biến hóa không cùng, cổ kim nay không một biết vậy.
Giả như trong Môn bay (tức 8 Cửa, bàn giữa) trước có Sao chủ. Trong Môn bay chợt có Canh bay tới (Giáp này câu chi giờ, Giáp Ất Ta bay lại, không lộ dấu vết) thì trăm việc, mặt ngoài tuy thấy đẹp đẽ, đầy đủ, mà trong thì thật là chật vật.
Lại như Môn bay đã khắc Sao chủ, mọi việc xem đều thấy hung lắm, mà trong Môn bay chợt có Kỳ bay tới (tức Can bay Ất, Bính, Đinh), thì trăm việc, ngoài mặt tuy hung, mà thực ra ở trong được ngầm nhiều. Sách nói như ẩn như hiện, như có như không là nói về Can bay vậy.
Đồ hình Thiên Nhân Địa tam bàn:
Ví dụ: ngày Ất Hợi, giờ Bính Tý, Hạ nguyên Tiết Đại thử Âm độn 4 cục.
Mậu 4 Tân 1 Ất 5
Kỷ 3 Nhâm 9 Bính 6
Canh 2 Quý 8 Đinh 7
Ta có Sao Thiên Xung và Thương môn. Giờ Bính Tý thì Thiên Xung gia Bính 6 cung, Thương môn gia Khảm 1 cung.
Thiên Trụ (Đinh)
Tử (Canh)
Tốn (Mậu) Thiên Tâm(Bính)
Kinh (Đinh)
Ly (Nhâm) Thiên Bồng (Tân)
Khai (Bính)
Khôn (Canh)
Thiên nhuế (Canh)
Cảnh (Nhâm)
Chấn (kỷ)
Ất Thiên Nhậm(Quý- Ất)
Hưu (Tân)
Đoài (Đinh)
Thiên Anh (Nhâm)
Đỗ (Mậu)
Cấn (Quý) Thiên Phụ (Mậu)
Thương (can bay Kỷ)
Khảm (Tân) Thiên Xung (Kỷ)
Sinh (ất-Quý)
Càn (Bính)
Quẻ này Phương Đông có Canh gia Kỷ là Hình cách. Phương Tây Có Quý gia Đinh là Xà Yêu Kiều. Tại Khảm 1 có Thiên phụ và Thương môn tương tỷ lại được địa bàn khảm thuỷ sinh nên cát.
1. Xem đầu quân (đi lính).
Lấy Thiên Xung là võ sĩ, Trực phù là chủ soái. Cung Trực phù sinh cung Thiên Xung, hoặc cung Thiên Xung sinh cung Trực phù thì mới thấy là vào hợp. Nếu hai bên khắc nhau thì không được thu dùng. Thiên Xung mà làm Trực phù thì một đi là làm bộ trưởng, sau tất đại dụng. Phục ngâm thì trở về ngay. Phản ngâm thì phản phúc không chuẩn.
2. Xem công thành (đánh thành).
Lấy 6 Canh là công, lấy Thiên Cầm là thủ (nguyên pháp nói: Canh là chúng quân, Cầm là công vào trung ương, cho nên chịu bị công).
Như 6 Canh được khí vượng tướng, được cửa Khai gia vào cung 5 giữa (cung 5 ở giữa cũng có Môn đi qua mà không ký ở đấy) thì thành tất bị phá.
Lại xem ở Địa bàn, cung Thiên Cầm đến đâu. Nếu vượng tướng được cửa cát thì tướng giữ thành không thể bắt nổi. Trái thế thì chết.
3.Xem giữ thành
Lấy Thiên Cầm là thủ, Thiên bồng Sáu Canh là công. Cung Thiên Cầm được các cửa Hưu, Sinh, Khai, Cảnh lại vượng tướng, có sáu Bính: thành ấy không phá nổi. Nếu không vượng tướng và cửa cát, lại phạm Thiên Bồng, Lục Canh, phạm cung giữa thì không giữ nổi.
4. Xem giặc cướp (đạo tặc)
Binh địch đi lại, trước chia giới hạn. Từ Đông chí về sau lấy Khảm, Cấn, Chấn, Tốn làm trong. Ly, Khôn, Đoài, Kiền 4 cung là không đến.
Cung có 6 Canh bị khắc là đóng doanh không ổn, tự sợ hãi mà lui. Sáu Canh khắc cung Canh đến, lại gặp Huyền vũ, Thiên Bồng, Bạch hổ các thần ấy tất đại chiến. Canh được Cửu thiên thiìđại trương thanh thế, thúc trống mà tiến. Canh được Cửu địa thì nên cuốn cờ im trống mà đi.
Như giặc đã vào Cảnh, xem bao giờ đi. Thấy Sáu Canh ở 4 cung trong thì không đi, ở ngoài 4 cung là đi. Gom lại, lấy 6 Canh địa bàn, Can Chi Năm Tháng Ngày Giờ làm kyỳđi lại. Canh trên Năm (Năm là phương cát) mà có cách Thái bạch nhập huỳnh thì tuy giặc có lại, nhưng ở ngoài giới (ngoài 4 cung) cũng chủ không lại. Huỳnh nhập Thái bạch, tuy chủ giặc đi, mà ở trong giới thì cũng không đi.
5. Xem thành trong cảnh giặc có giữ được không?
Lấy cung Can giờ là Khách, cung Chi giờ là Chủ (tức cung phù, Sử) xem sinh khắc ra sao?
Như cung Chi giờ địa bàn bị cung có Trực phù khắc chế, mà Chi giờ lại có 6 Canh, Huyền vũ thì thành này nên bỏ. Hoặc cung Trực sử tự bị dưới khắc, thành này cũng không thể ở, nên mau tránh lui.
Như cung Trực phù và cung Trực sử sinh nhau, hòa nhau hoặc cung Trực phù tự bị hình khắc thì kẻ địch 3 lần lại đều không thể đánh thắng, giữ thành không ngại.
6. Xem được thua.
Phàm chiến trận, lấy 2 cửa: Cảnh, Kinh làm chủ.
Kinh nói: cửa Cảnh nên phá trận và phép trị loạn. Cần thấy cửa Kinh được Trực phù tới cung làm chủ. Cung sáu Canh tới làm Khách. Cung Trực phù khắc cung sáu Canh thì Chủ thắng. Cung sáu Canh khắc cung Trực phù thì Khách thắng.
Lại luận vượng tướng là thắng, hưu tù là bại.
Như Chủ được hai cửa Kinh, Cảnh hoặc cung của 2 cửa cùng với cung Khách sinh nhau thì Khách thắng.
Như cung Chủ Khách sinh nhau tất có giảng hòa.
Như cung Chủ Khách đều vượng tướng, đều được 2 cửa, không hình khắc nhau, thì sức ngang nhau, hai bên cùng sợ không đánh mà lui.
Như sáu Canh là trực phù, thế là Chủ Khách cùng cung, 2 bên không chia thắng bại.
Lại Can ngày trên Canh là Chủ thắng, Canh trên Can ngày là Khách thắng.
Như khí Cốc vũ, thượng nguyên, dương độn, 5 cục, ngày Bính, Tân, giờ Nhâm Thìn. Thiên trụ là Trực phù trên có sáu Canh chủ hai bên không chia thắng bại, tự cùng rút tránh.
Ất Canh (Phù)
Nhâm
Đinh
Bính
Mậu
Canh
Tân
Quý
Kỷ
Kinh (Sử)
Lời người dịch: Khí Cốc vũ, sau Đông chí, trước hạ chí thì phải là độn dương chứ không phải là độn âm như bản nguyên viết. Ở đây, người dịch xin hoạch khóa này cho bạn đọc trông thấy rõ.
Giờ Nhâm Thìn thuộc phù đầu Tuần giáp Thân Canh, vậy là Canh Giáp Thân Thiên Trụ Trực phù bay trên sáu Nhâm tại cung Cảnh. Kinh môn Trực sử bay trên sáu Kỷ ở cung Khai, bản nguyên viết Thiên trụ Trực phù trên có sáu Canh thì không đúng. Trên có sáu Quý, không phải sáu Canh. Nên nói dưới có sáu Canh thì đúng.
7. Xem về tin xa
Lấy cửa Cảnh là tin. Kinh nói: trên Cảnh dâng thơ và phá trận.
Cửa Cảnh tới ngoài giới thì tin đến chậm, tới trong giới thì tin đến nhanh. Trên có cách cát thì tin cát, cách hung thì tin hung. Những cách môn bách (cửa bị bách ép), lao sông (Chu tước đầu giang) đều không có tin.
8.Xem Xế lớn cát hung.
Lấy Trực phù là Sứ hộ, cửa Khai là sao quan, cung của cửa Khai bị cung của Trực phù khắc chế, lại hưu tù phế một và không có sao cát, cách cát chủ bị đòi hỏi. Vượng Tướng thì chủ bị bãi chức. Được sao cát thì giáng cấp.
Cửa Khai không bị cung Trực phù khắc chế, lại còn sinh nhau nữa thì không việc gì.
9.Xem bản văn được phê sớm hay muộn.
Cung sáu Đinh và cung Trực sử sinh nhau thì sớm, khắc nhau thì muộn.
Lại xem sáu Đinh tới đâu, lấy Can Chi ngày xem mà định ngày lĩnh phê.
10.Xem quan mới đến nhận chức tính nết thế nào, người ở đâu.
Lấy cửa Khai là sao Quan. 9 sao là tâm tính, Can trời là phận dã (can thiên bàn).
Như cửa Khai trên có Sao cát là người tốt, Sao hung là người ác.
Thiên phụ thì tâm tính văn minh. Thiên Nhậm thì nhân từ. Thiên Tâm thì lòng thiện, ngay thẳng. Thiên Cầm thì trung hậu. Thiên Xung thì rắn ác. Thiên Ương thì oanh liệt. Thiên nhuế thì thâm độc. Thiên Trụ thì gian quỷ đại ác.
Giáp là dân hán. Ất là dân hải ngoại và Đông di. Bính là Sở. Đinh là Đại, Giang hoài nam. Mậu, Kỷ là Hàn, Nguỵ, Trung châu, Hà tế. Canh là Tần. Tân là Hoa. Nhâm là Yên, Triệu. Quý là Thường, Hung.
11.Xem quan sai phái hoãn cấp.
Lấy Can giờ là ta, Can ngày là Quan trưởng. Sáu Đinh là công văn. Trực sử là công sai.
Nếu cung Trực phù khắc cung Thiên ất (án Thiên ất này là Can giờ, Can giờ trên trời là Thiên ất), mà Sáu Đinh tới đất trong giới thì việc sai chậm hoãn.
Như cung Trực phù khắc cung Thiên ất, mà Trực sử tới đất ngoài thì việc sai gấp.
Lại có kích hình tới thì ý chí ác, ba kỳ đến thì thiện. Nếu sinh nhau thì công sai và quan trưởng gặp nhau vui vẻ, khắc nhau thì thấy giận.
Lại xem sáu Canh là ngục trời (thiên ngục), nếu tới cung hưu tù thì đi lần thứ 2 là phải kết, vượng tướng thì không thể kết.
12. Xem rời đổi cát hung.
Lấy 9 sao, 9 cung chia phương hướng định xem có thể được hay không.
Như phương ấy trên có ba Kỳ, cửa cát, lại được Thiên cầm, 4 tháng Quý đều cát. Được Thiên Phụ: Xuân Hạ đại cát. Được Thiên Tâm: Thu Đông lợi lớn. Còn các sao khác đều không lợi.
Đầu lấy giờ lại mà xem, xét sao nào là Thiên ất mà định. Sau đấy lấy giờ người lại xem mà phát xem. Không giống như giờ bói toán trong Lục nhâm.
13.Xem chim sẻ kêu.
Lấy Chu tước làm chủ.
Xét Chu tước tới Kỳ nào, Môn nào để quyết việc.
Như cửa Khai được Kỳ thì chủ có thân bằng đến, hoặc người đi xa về, hoặc chủ có rượu thịt (ở đây đều lấy cửa Khai mà đoán. Nhân bàn để đoán việc về người, đây đưa ra một phương mà thôi).
Cửa Hưu được Kỳ chủ có việc mừng (Hưu là mừng), tin mừng và việc hôn nhân.
Cửa Sinh được Kỳ chủ việc được ruộng vườn, sản nghiệp, của cải, lợn súc (đều cầm phép đoán cửa Sinh).
Nếu không được ba cửa cát và Môn bách, Kỳ mộ thì đều chủ không có quan hệ gì.
Cần xem cửa Cảnh được cách cát thì có tin lo lắng hoặc có buồn phiền nhỏ.
14.Xem thăng lên (thăng thiên)
Khi đến nhậm chức đã lâu ngày, chưa được cất nhắc, muốn biết thời điểm nào được thăng, nên lấy cửa Khai mà quyết. Nhân vì cửa Khai là Quan giữ việc phát ấn. Môn trên cung sinh vượng, lại được ba Kỳ, Đức hợp, cách cát. Lại được Năm Tháng (Tuế, Nguyệt kiến) có cát thần đến sinh thì tất là được cất nhắc lên cao.
Được cách cát mà không vượng tướng, cách cát mà Năm tháng không đến sinh nhau thì cũng không được cất nhắc.
15. Xem thi hương, thi hội.
Lấy Can ngày là sĩ tử, Trực phù là Tổng tài, Thiên Ất (tức Trực sử, đây chỉ vào người quý mà nói, không phải là Trực phù. Nghi tức Lục nhâm gọi là buông rèm) là giám khảo (phòng sư). Sáu Đinh là văn chương.
Cung Trực phù khắc cung Can ngày, thầy tòa (tòa sư) không lấy. Cung Thiên Ất khắc cung Can ngày, thày phòng (phòng sư) không tiến.
Cung sáu Đinh khắc cung Can ngày, Can ngày khắc cung sáu Đinh, cùng là sáu Đinh hưu tù phế một, đều chủ đề mục rất khó, văn chương sai ý.
Như cung Trực phù, cung Thiên Ất đến sinh cung Can ngày, cung sáu Đinh cũng được vượng tướng thì tất trúng, khuyết một thì không trúng. Khó khăn là cách này phải toàn vẹn thì cầu được, đó cũng là chí lý. Trong Lục nhâm cũng dùng phép này suy.
16. Xem bệnh ngày nào khỏi.
Lấy Can ngày của người bệnh làm chủ (ngày trong 3 chữ), lấy Thiên nhuế là thần bệnh. Lấy 2 cửa Sinh Tử làm sống chết.
Như Can ngày tới cửa Sinh thì sống, không chết (chỗ này bản nguyên viết: nhật can lạc tại môn Sinh chủ bất tử. Đúng ra phải viết: Nhật can lạc tại Sinh môn, sinh, bất tử)( đều dùng chữ thiên bàn). Được cửa Tử thì không khỏi. Lại gặp Can ngày hưu tù, được sao hung, cách hung thì chắc chết.
Còn sáu cửa khác thì chủ mê man. Lấy ngày Thiên nhuế gặp phế một là kỳ khỏi.
Xem con gái (nhi nữ) bệnh mà Can Giờ vào Mộ cũng chết.
17. Xem đến yết (Can yết).
Xem đến yết chuyên xét cửa Hưu. Lấy phận cung Cửa Hưu là người đến gặp (như Thiên bàn Hưu trên Chấn thì Chấn là bản cung) cung Can Giờ là người đi (Can Giờ trời đến đến trên Khảm địa bàn là loại thuỷ).
Cung cửa Hưu sinh cung Can Giờ, mà cung Can Giờ lại có 3 Kỳ tới thì được vừa ý. Nếu khắc chế nhau, lại không có ba Kỳ thì không được gặp, hoặc không vui vẻ mà điều cần không được vừa ý.
Lại cần hai cung vượng tướng, nếu một cung không tốt thì không cát.
Nếu phương đến gặp được cửa Hưu tới cũng được gặp.
18. Xem lùng bắt (bổ tróc).
Lấy Lục hợp là người trốn. Lấy cửa Thương là người đi bắt (toàn lấy 8 cửa làm chủ, vì 8 cửa là Nhân bàn chủ việc về người).
Như cung Lục hợp (nói Lục hợp Thiên bàn tới 1 cung ở địa bàn. Sau đây hễ nói đến cung thì theo lệ này). Khắc cung cửa Thương thì không thể bắt được. Trái thế thì dễ bắt.
Cửa Thương sinh cung Lục hợp thì người đi bắt không ra sức thực tất là do nhận hối lộ.
Cửa Thương Lục hợp cùng cung thì hai bên thông đồng nhau. Gặp cách Niên Nguyệt Nhật Thời thì có thể bắt được. Thiên cương thấp cũng vậy.
19. Xem hôn nhân.
Lấy Sáu Ất là Nữ, Sáu Canh là Nam, lấy nghĩa ở chuyện Giáp đem em gái là Ất gả cho Canh.
Như cung Ất và Canh tới, cùng sinh nhau hợp nhau thì thành. Hai bên khắc nhau thì không thành (như địa bàn Tý Mão hình nhau).
Lại lấy Lục hợp trời là người mối. Như cung Lục hợp sinh cung Lục ất thì người mối hướng về nhà Nữ. Sinh cung Sáu Canh thì người mối hướng về nhà Nam.
Cung Sáu Canh khắc cung Sáu Ất thì nhà gái sợ nhà trai mà không gả. Cung Sáu Ất khắc cung sáu Canh thì nhà trai hiền mà nhà gái không lấy.
Cung Sáu Ất có kích hình thì người gái hung ác, có Đức hợp thì tính người gái hiền hòa.
Cung Sáu Canh có thần hung thì tính người nam bạo liệt, có Đức hợp thì tính hiền hậu.
20. Xem chạy mất.
Lấy Can giờ là chủ mất (trong Lục nhâm dung can ngày cũng cùng một lý). Lục hợp là vật bị mất. Nên lấy cung tới luận. Lại lấy cung Lục hợp và cung Can giờ xét xem ở trong hay ngoài để chia xa gần.
Như Can ngày Lục hợp đều ở trong thì dễ tìm, đều ở ngoài thì khó tìm. Lục hợp ở ngoài, Can ngày ở trong thì khó tìm.
Lại lấy cung có Lục hợp làm phương hướng. Như được sao vượng tướng, lại tới 4 cửa Khai, Hưu, Sinh, Đỗ thì không thể tìm được. Trái thế thì được.
Gặp Cửu địa, Thái âm (bản nguyên viết là Thái Dương) thì có người đem giấu. Gặp Cửu Thiên thì chạy xa. Gặp Huyền vũ thì bị người lấy cắp đem đi. Gặp Đằng xà có người trói buộc. Gặp Chu tước được tin tức. Gặp Câu trận có người buộc dắt đi (trên đây chỉ sự gặp như trong Lục nhâm).
Lại xem Sáu Canh, gặp Niên cách thì trong năm tìm thấy, Nguyệt cách thì trong tháng tìm thấy, Nhật cách thì trong ngày tìm thấy, Thời cách thì trong giờ thấy.
21. Xem vay mượn.
Lấy Trực phù là người chủ vật. Thiên Ất (tức Trực sử, đều phỏng đây suy ra) là người đi vay. Đều dung cung tới sinh khắc mà luận.
Cung Trực phù sinh cung Thiên Ất, cung Thiên Ất khắc cung Trực phù thì vay mượn được. Cung Trực phù khắc cung Thiên Ất, cung Thiên Ất sinh cung Trực phù thì không vay được.
22. Xem thi võ.
Lấy Trực phù làm chủ khảo, Can giờ là người đi thi. Giáp Thân Canh là số lẻ (cơ). Giáp Ngọ Tân là hồng tâm, cửa Cảnh là mũi tên mà luận.
Chuyên xét cung tới của Giáp Thân Canh, nếu khắc cung Giáp Ngọ Tân hoặc xung cung, đều là tên vào hồng tâm.
Lại xem cửa Cảnh, được vượng tướng, lại cùng cung Trực phù sinh nhau, chủ trúng. Khuyết một thì mũi tên không trúng.
23. Xem cầu tiến.
Nên chia Hưu Dụng. Lấy cung cửa Sinh tới là Hưu. Sao trên cửa Sinh làm dụng, Dụng sinh Hưu thì cát. Hưu sinh Dụng thì không cát.
Dụng vượng Hưu suy, Hưu tuy khắc Dụng không cát lắm.
Hưu vượng, Dụng suy. Dụng tuy khắc Hưu cũng không quá hại.
Đại để, xét cung mà cửa tới mà phân. Lại xét trên dưới ba bàn, cách cục cát hung như thế nào. Tinh cát, Sao cát thì điều cầu vừa ý. Có một không cát, chỉ cầu được nửa. Hưu Dụng không cát, điều cầu hoàn toàn không được.
24. Xem chủ thuyền thiện ác.
Lấy Chấn cung 3 là chủ thuyền, lấy sao trên thiên bàn mà định thiện ác của chủ thuyền.
Trên cung Chấn được ba sao: Phụ Tâm Cầm thì rất cát. Sao Xung, Nhậm thì trung cát, nhà thuyền này thực là người tốt. Được Ương Nhuế, Trụ, Bồng thì rất hung, không nên lên thuyền đó.
25. Xem người ra ngoài có yên không.
Trước định phương hướng. Xét thấy phương ấy, 2 bàn trên dưới được Ba kỳ, Môn cát (hai bàn trời đất đều có kỳ môn) và các cách cát thì yên, trái thế không yên.
26. Xem hỏi bạn.
Khi dùng việc trong kỳ môn, chuyên chọn phương hướng và giờ. Như ta muốn hỏi bạn, tìm người, lấy phương đi tới ở địa bàn làm chủ, thiên bàn là khách. Chủ khách cần sinh hợp nhau, lại được môn cát, cách cát thì tất cùng rời đi. Nếu Môn hung, trên dưới hai bàn lại khắc chế nhau thì không rời. Canh làm cách Niên, Nguyệt, Nhật, Thời, gặp thế thì cũng không rời.
27. Xem tuyết.
Lấy 2 cung Kiền Đoài làm chủ. Cung Thiên tâm tức Kiền. Sao Thiên Tâm gặp 2 Can Nhâm Quý và tới cung Đoài. Hoặc sao Thiên Trụ gặp 2 can Nhâm Quý và tới cung Kiền đều chủ có tuyết. Lấy can ở cung tới được của địa bàn định kỳ có tuyết.
KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 8
Hoặc có người, có vật, có động tĩnh thì lấy sao ở phương ấy vào cung. Lại lấy đúng giờ ấy xem Môn gì vào Trung cung để định Người. Lại xem ở Bản cung của Trung cung có sao nào, Môn nào đem điền thực, hoặc lấy các loại quan quỷ, phụ mẫu, huynh đệ, tử tôn, thê thiếp mà suy. Thấy cung điền thực sinh bản cung, bản sao thì có ích. Khắc cung Trung, cung bản, sao bản thì có tổn nên tránh.
Tức lấy Can giờ bầy trên cung trung, độn dương đi thuận, độn Âm đi nghịch xem phương nào có Kỳ, có Môn thì lánh về phương ấy.
1.Xem đi xa định kỳ về.
Phép này lấy Trường sinh ở bên góc mà quyết. Xem ngày ra đi thuộc Can nào. Tìm ở 4 góc xem Trường sinh của Can là gì. Lấy Can ở dưới địa bàn của cung ấy mà làm ngày về.
2.Đi xa xem ở nhà có yên không.
Phép này chuyên lấy 4 góc mà quyết. Bốn góc là phương của 4 Trường sinh. Ví như ngày Giáp Ất thì xét cung Kiền. Đó là cung của 4 Trường sinh lớn. Thấy được Môn, được Kỳ, được cách cát thì cát, cách hung đều hung.
3.Xem cầu người cất nhắc
Phép này dùng Giáp Tý Mậu là người đi cầu tiến. Lấy Thiên Ất là người cất nhắc. Thấy cung Thiên Ất sinh cung Giáp Tý Mậu và cung Trực phù thì chắc được cất nhắc. Nếu trái thế thì không được.
4.Xem tờ kiện cát hung.
Phép này dùng hai cửa Kinh, Cảnh làm chủ.
Khi xem giấy tờ kiện cáo, xét cửa Kinh được vượng tướng thì kiện không dứt. Cửa Cảnh cũng vậy. Nếu 2 cửa vào Mộ hay vào cung Không vong thì kiện không thành.
5.Xem mộng cát hung.
Phép này chuyên lấy Đằng xà trên thiên bàn Môn nghi gì với dưới địa bàn môn Nghi gì. Hợp Môn cát, cách cát thì mộng cát, gặp cách hung thì hung. Nếu dưới địa bàn là không vong, Mộ khố thì không có cát hung.
6.Xem chim chóc kêu nhộn
Phép này chuyên lấy sao Thiên cầm tới cung, thấy Can gì mà quyết. Nếu Thiên Cầm tới cung địa bàn, được Kỳ môn, cách cát thì cát, cách hung thì hung. Đều lấy 3 cửa mà phối, cát hung tự nghiệm.
7.Xem là yêu quái gì.
Chuyên dùng Đằng xà tới cung gặp Môn, Sao mà quyết. Nếu như Đằng xà tới cung Khảm là quái nước, thần nước. Tới cung Cấn là quái đá, tinh núi. Tới cung Chấn là quái gỗ, hồ ly. Tới cung Tốn là yêu hoa, Rồng, rắn. Tới cung Ly là quái lửa, quái chim, quái rùa, rắn. Tới Khôn là bà già, trâu dê, vàng bạc sinh lâu thành tinh. Tới Kiền là quái cho, dê, lợn và vật bằng đồng, sắt, các thứ đồ dùng làm quái. Nếu không được Kỳ môn cách cát, gặp cách hung thì có thể chết chóc, tang cha mẹ, các hung kiện cáo quan tư. Nếu tới cung gặp Không vong thì không ngại.
8.Xem tránh nạn.
Chuyên dùng cửa Đỗ mà quyết. Xe mcửa Đỗ bay tới phương nào thì nên lánh về phương ấy. Lại xem phương ấy là Can gì. Thấy Mậu là người quý lẩn tránh..
Nếu cửa Đỗ có 3 Kỳ thì đi mới không có cách trở gì, cát lắm. Nếu thấy Canh thì nên ôm gỗ mà đi mới khỏi hung tai. Thấy Tân là Ngục trời, Nhâm là lao đất thì không thể thoát. Nếu cửa Đỗ tới địa bàn là Quý, là cách Thiên cương (lưới trời) ở 2 cung chấn tốn có thể dùng khúc gỗ 3-4 thước mà yểm để trốn. Ở 2 cung Kiền Đoài có thể ngồi xổm xuống mà qua. Phương trốn ở 2 cung Cấn Ly, lưới cao 8-9 thước thì kiễng chân lên mà đi.
Nếu cửa Đỗ ở 2 cung Chấn Tốn là lưới trời thấp cửa thì không thể trốn thoát.
Ví cửa Đỗ tới 2 cung Kiền Đoài, Mộc bị Kim khắc tuy có trốn được mà sau cũng bị bắt được. Nếu có 3 Kỳ, cách cát tới cung Can ngày thì có cứu.
9.Xem vào núi hỏi đạo.
Lấy Thiên Nhuế là người đi hỏi đạo. Thiên Phụ là người truyền đạo.
Nếu Thiên phụ được Kỳ môn, cách cát đến sinh Thiên nhuế thì được bậc cao minh truyền dạy. Tỷ hòa mà Không vong thì gặp người không truyền đạo. Khắc nhau thì không gặp người.
Suy ra ngày Dương thì gặp các bậc tăng đạo truyền đạo. Ngày Âm là vũ sĩ truyền đạo.
10.Xem nên sai khiến người nào đi.
Chuyên dùng cửa Khai, sao Thiên Xung và Can Mệnh của bọn chúng là Can năm gì, Can ngày gì. Năm mạng bị cửa Khai xung thì sai đi được. Không xung thì không nên sai.
11.Xem thôi việc.
Lấy cửa Khai là quan trưởng. Lấy Can ngày là người xin thôi việc.
Nếu cửa Khai sinh Can ngày thì quan trưởng có tình luyến tiếc mà không chuẩn cho thôi. Cửa Khai mà khắc Can ngày thì đồng ý cho lui nhưng giận trách. Tỷ hòa cũng chuẩn cho lui. (Mọi việc đếu lấy lý ở ngoài đời mà suy).
Lại thấy Can ngày có cách Thanh long đào tẩu (Rồng xanh chạy trốn), Huỳnh nhập Bạch thì tất lui.
Nếu gặp cách Bạch nhập huỳnh, Hổ xương cuồng thì không thể lui. Gặp cách Đằng xà yêu kiều thì chủ về sợ hãi, muốn lui không thể được.
Nếu gặp Hỏa cách và Chu tước đầu giang thì không những cho lui mà còn bị trách phạt.
12.Xem xin việc.
Lấy cửa Khai làm quan đang nhậm chức. Lấy Can ngày làm người xin việc.
Nếu thấy cung Can ngày được khí vượng tướng, lại được Kỳ Môn cách cát, mà cửa Khai được được Kỳ Nghi cách cát đến sinh Can ngày thì tất được quan trưởng trọng dụng phát đạt. Nếu Can ngày không được vượng tướng, Kỳ nghi cách cát (chứng tỏ người xin việc cũng không có năng lực) nhưng được cửa Khai sinh Can ngày thì người đi xin việc cũng được nhận, cũng khá tốt.
Nếu Can ngày cửa Khai hai bên xung khắc nhau chứng tỏ hai bên gặp mặt đều không thích nhau mà không làm.
13.Xem mua người.
Lấy Trực phù làm người mua đầy tớ. Lấy cung Thiên nhuế tới làm kẻ đầy tớ.
Thấy cung Thiên nhuế sinh Trực phù thì người tớ ấy ích cho chủ. Nếu tỷ hòa nhau thì không kính thuận nghe lời. Khắc Trực phù thì hay cãi lại, phản chủ.
Có Huyễn vũ, Thiên Bồng thì có tính trộm cắp. Cách Thanh long đào tẩu thì hay trốn mất, bỏ việc. Cách Đằng xà yêu kiều thì hay ốm đau bệnh tật, chết.
Gặp cách Bạch nhập Huỳnh, Hổ xương cuồng mà khắc cung Trực phù thì giết chủ, rất hung.
Gặp cách Ngọc nữ thủ môn thì dâm loạn, làm ô uế chủ.
Gặp cách Huỳnh nhập Bạch thì lười biếng, ngu dốt
Ngoài ra phỏng thế mà suy.
14.Xem mở quán.
Lấy Thiên Phụ làm người cần mở quán. Lấy Giáp Tý Mậu, cửa Khai làm quan trưởng.
Nếu cửa khai mà có 3 Kỳ, cách cát đến sinh cung Thiên Phụ thì chủ các quan có tiếng đến thăm. Vì cung Giáp Tý Mậu, cửa Khai chủ về người quý, học tiến. Ví cửa Khai không được vượng tướng, 3 Kỳ thì chủ các quan nhỏ đến thăm. Cùng tỷ hòa thì chủ và tân khách hợp ý. Khắc chế nhau, phản nhau thì chủ khách không hòa. Ví tThiên phụ vào Mộ thì chủ quán gặp hung. Cửa Khai vào Mộ thì khách gặp hung hoặc khách hay giận dữ, vào Không vong thì sau không thành quán.
15.Xem quán sách.
Lấy Thiên phụ là sư trưởng. Thiên nhuế là đệ tử.
Nếu cung có Thiên nhuế sinh cung có Thiên phụ thì chư đệ tử đến thăm sư trưởng. Cung có Thiên phụ sinh cung có Thiên nhuế thì sư trưởng đến với đệ tử hoặc đồ đệ cũ.
Thiên phụ khắc cung thiên nhuế thì sư trưởng hiềm đệ tử. Thiên nhuế khắc Thiên phụ thì đệ tử hiềm sư trưởng. Nếu thiên nhuế có khí vượng tướng lại được Kỳ môn cách cát tất là quán đông. Nếu Thiên nhuế không được Kỳ môn cách cát, không được vượng tướng tất ít người. Phụ Nhuế gặp Phản ngâm, chủ nửa đường phải bỏ. Thiên nhuế vào Không vong, Mộ khố thì không thành quán. Ngoài ra phỏng thế.
16.Xem hỏi người.
Lấy thiên bàn phương đi tới là ta. Cung địa bàn là Người. Thiên Địa 2 bàn tỷ hòa nhau thì tất gặp. Lại được Kỳ môn cách cát, với Can ở 2 bàn trên dưới hợp nhau, đều có rượu thịt. Nếu khắc nhau thì 2 bên không tương đắc mà không gặp. Như tới sao và Can vào Mộ thì người có nhà mà không cho gặp. Như cung địa bàn mà Không vong thì đúng là người không có nhà.
17.Xem người đến hỏi.
Lấy Tinh thiên bàn ở phương người tới là người đến hỏi, là Khách. Cung Địa bàn là Chủ, là ta.
Thiên bàn được Kỳ môn đến sinh cung Địa bàn là khách quý,có ích cho ta nên có thể gặp. Nếu Tinh thiên bàn khắc cung địa bàn, lại gặp cửa hung, cách hung thì người hại cho ta, không nên gặp.
18.Xem tin tức hư thực.
Lấy cửa Cảnh, Chu tước làm tin tức mà quyết. Nếu cửa Cảnh được vượng tướng khí, lại có 3 Kỳ là tin thật. Cửa Cảnh hưu tù, không được 3 Kỳ, lại có Chu tước là tin không thật, không nên nghe. Cửa Cảnh gặp Không vong, Mộ khố lại có Chu tước là lời nói trên đường hoặc lời đơm đặt không tin được.
19.Xem ra đi đường thủy hay bộ cát hung.
Lấy cung của 2 cửa Hưu Cảnh tới mà chia 2 lối thủy bộ. Cửa Hưu rơi vào Không, hợp 2 bàn trời đất có 3 kỳ thì đường thủy cát. Cửa Cảnh có 3 Kỳ thì đường bộ cát.
Đi thuyền thì kỵ cách Thanh long đào tẩu, Bạch hổ xương cuồng là cách hung, chủ có gió bão, cách Đằng xà yêu kiều chủ có hung tai. Cách Chu tước đầu giang chủ đắm thuyền, lại lấy cửa Thương làm thuyền. Cửa thương trên cửa Hưu là nổi, là thuận. Cửa Hưu trên cửa Thương là thuyền trôi đầy nước, chủ đắm thuyền.
Cửa Cảnh là đường bộ, cũng lấy cửa Thương là ngựa, là xe. Kỵ cách Thái bạch nhập huỳnh chủ về mất trộm. Cách Huỳnh nhập Thái Bạch chủ lửa cháy. Huyền vũ, Thiên Bồng chủ mất trộm.
Đường thủy kỵ cửa Kinh đến khắc, sợ thuyền bị thương, cửa Cấn thì không lợi có nước, mắc cạn.
Đường Bộ mà cửa Hưu trên Ly thì bùn lầy khó đi. Nếu 1 cửa vào Mộ thì chủ cầu quán cách trở, đường đi khó khăn.
20.Xem ra đi.
Lấy cung Can ngày tới là người ra đi để mưu làm việc. Đi lên phương nào, thấy phương ấy có cửa cát, cách cát đến sinh cung Can ngày thì ra đi được lợi lớn.
Hoặc không được Kỳ môn, cách cát đến sinh mà cùng Can ngày tỷ hòa nhau cũng có lợi. Trái thế thì không lợi.
Lại bị cửa hung, cách hung đến xung khắc Can ngày thì rất hung. Nếu tới phương Không vong, vào Mộ hoặc Can ngày, Niên Mệnh gặp phương Hình, Mộ, Không vong cũng không lợi.
21.Xem tội nặng nhẹ
Lấy Giáp Ngọ Tân là người có tội, Cửa Khai là quan hỏi. Nếu cung của cửa Khai sinh cung của Giáp Ngọ Tân thì quan hỏi tội thương mà không thêm tội. Cùng tỷ hòa thì tội nhẹ. Cùng xung khắc mà gặp cách hung thì tất là tội nặng.
Nếu Giáp Ngọ Tân mà gặp Không vong, được Kỳ môn cách cát cùng cứu thì tội được tha.
22.Xem tù cầm.
Lấy Giáp Ngọ là người có tội, Tân là Ngục trời. Nhâm là Lao đất. Quý là lưới trời (Thiên cương).
Xem cung có Can ngày mà dưới là Giáp Ngọ chủ bị cầm hung. Cung Giáp Ngọ Tân, dưới địa bàn là Nhâm Quý là lâm vào lao trời, đợi đến ngày xung phá thì ra. Nếu Can Nhâm Quý trên Thiên bàn mà dưới địa bàn là Giáp Ngọ Tân là vó lưới trùm đầu, chủ bị cầm hung.
Lại như Sao Nghi trên trời tới cung địa bàn là Mộ khố và Nhâm Quý thì suốt đời không thoát tù ngục, đợi làm quỷ trong tù vậy. Nếu tới cung Không vong thì là không ngục, không bị cầm tù.
23.Xem việc quan.
Lấy Giáp Nhâm Đằng xà mà suy.
Cung Trực phù dưới thấy Giáp Thìn Nhâm, Đằng xà chủ bên nguyên dây dưa nhiều người. Cung có Ất kỳ, dưới là Giáp Thìn Nhâm và có Đằng xà chủ bên bị dây dưa nhiều người. Cung cửa Khai, dưới là Giáp Thìn Nhâm Đằng xa thì chủ quan hỏi tội chuyên nhiều người. Giáp thìn Nhâm Đằng xà vào cung Không vong thì không dây dưa nhiều người. Nếu thấy Đại cách (Canh gia Quý) thì buông tha, không ngại.
24.Xem có bị trách phạt không.
Lấy cách Canh mà quyết.
Cung Canh Kim đến khắc cung Trực phù thì nguyên cáo bị trách. Khắc cung kỳ Ất thì bị cáo bị trách. Khắc cung Lục hợp thì người làm chứng bị trách.
Nếu Canh Kim vào Mộ và tới Không vong thì quan giận không quở trách.
25.Xem tờ trạng.
Lấy cửa Cảnh, Chu tước là tờ trạng. Cửa Khai là quan trưởng. Như 2 cửa Cảnh, Kinh có khí vượng tướng lại có 3 Kỳ cách cát chủ lời lẽ khẩn thiết, không bị cửa Khai xung khắc thì được chuẩn. Hai cửa Kinh, Cảnh không được Kỳ Nghi cách cát, lại cùng cửa Khai xung khắc thì chủ quan giận mà không chuẩn, trái lại là chịu tội phạt.
Nếu 2 cửa Kinh Cảnh vào Mộ thì chủ lời lẽ trong đơn không rõ nên không chuẩn. Hai cửa Kinh Cảnh tới Không vong thì ném đơn không chuẩn.
Cửa Khai vào Mộ và tới Không vong thì quan không động tình mà không chuẩn.
26.Xem quan phó thác.
Lấy cửa Khai là quan hỏi cung. Trực phù là nguyên cáo. Kỳ Ất là bị cáo.
Cung Trực phù sinh cung cửa Khai chủ nguyên cáo có gửi. Kỳ Ất cũng vậy. Hai cung mà bị cửa Khai xung khắc thì bỏ giao phó, quan không chuẩn.
27.Xem việc quan có cứng lý không.
Lấy cung cửa Khai tới là quan hỏi cung. Cung Trực phù tới là nguyên cáo. Cung kỳ Ất tới là bị cáo. Cung Lục hợp tới là người làm chứng.
Cung cửa Khai sinh cung Trực phù thì quan hướng về nguyên cáo. Sinh Ất cũng cùng lẽ. Sinh cung Lục hợp thì chủ nghe lời chứng. Tóm lại thì sinh nhau là cứng lý, khắc nhau là đuối lý.
Cửa Khai vào Mộ thì quan hỏi cung hồ đồ, xét hỏi không rõ ràng. Cửa Khai vào Không vong thì không hỏi. Phản ngâm thì đổi quan khác hỏi.
28.Xem đơn kiện
Lấy Trực phù là nguyên cáo. Sao địa bàn ở cung mà Trực phù tới là bị cáo. Sao Thiên bàn khắc sao Địa bàn thì nguyên cáo thắng. Sao Địa bàn khắc sao Thiên bàn thì bị cáo thắng.
29.Xem bệnh khỏi.
Lấy cung Thiên nhuế là bệnh chứng, thấy khắc Can chi. Ở cung tới là kỳ khỏi. Như Giáp Ất mộc khắc Mậu Kỷ thổ vậy.
30.Xem mời thầy thuốc.
Lấy sao Thiên tâm là thầy thuốc. Lại lấy Kỳ Ất là thầy thuốc.
Cung mà 2 thần tới có Kỳ môn, cách cát là lương y. Hai thần tới cung vượng tướng, không gặp Kỳ môn cách cát là thầy bình thường, không được khí vượng tướng và Kỳ môn cách cát là thầy tồi. Không luận thầy hay hoặc thầy tồi nhưng có thể khắc cung Thiên nhuế thần bệnh thì chữa chạy có công hiệu. Nếu cung thần bệnh tới khắc 2 cung 2 thần tới thì tuy thầy hay cũng không thể chữa khỏi.
31.Xem là chứng bệnh gì.
Lấy cung Thiên Nhuế tới mà quyết. Lại lấy phép đội 9 dẫm 1 xem là bệnh gì.
Tới cung Ly là bệnh ở đầu, mắt, ở bên trong là bệnh ở tâm. Ở bệnh là bệnh hỏa.
Tới Khôn là bệnh ở bụng, ở trong là bệnh tại Vị (dạ dày), ở bệnh là cổ trướng, ở ngoài là bệnh ngoài da, lại là vai phải, tai phải, ở bệnh là sang nhọt.
Tới Đoài là Yết hầu, hung cách, phế. Ở trong là ho hắng, não, suyễn thở, ngọng ngịu. Ở ngoài là miệng răng, trán, góc sườn bên hữu. Ở bệnh là bí.
Tới Kiền là đùi chân, cũng là đầu. Ở trong là Đại tràng, ở bệnh thì trong là bàng quang, đái khó, ủng kết. Ngoài thì là đùi, chân, gân cốt đau nhức, lại là sang nhọt.
Tới Khảm ở trong là tiểu trường, thận khí, đan điền. Ở bệnh là hàn, là di tinh, là đi tả, đi đái đầm đìa, tiện bế, hoặc rượu chè năm lâu mà bụng đau. Ở ngoài là thận. Ở bệnh là âm hư, nhọt ngún, sán khí (tức là bệnh ở bộ máy sinh dục)
Tới Cấn là bệnh ở Tỳ, bệnh trong là hư trướng. Ở ngoài là đùi chân, cước khí (bệnh nhức trong ống chân). Ở bệnh là phong thấp, tê liệt, cũng là nhọt.
Tới Chấn, ở trong là Can Đởm. Ở ngoài là sườn bên tả. Bệnh ở trong là huyết hư, là chứng lao, thổ huyết, ngủ mệt, kinh sợ nói cuồng. Bệnh ngoài mắt mù, tai điếc và da dẻ hủi cùi, nhọt đau, các tật về bong gân, xương sống.
Tới Tốn, ở trong là Dạ dày, miệng, cao hoang, lại là bệnh đởm. Ở trong thì trúng phong không nói được, can phế cũng thương, tam tiêu hư viêm, cảm thương phong nhiệt, suyễn thở. Ở ngoài là tai trái, vai trái, sườn trái, lại là gân. Bệnh ngoài thì chân tay phù nóng, bốn chi không sức, là tật hỏa, là tật cân tê (gân nhẹ xốp).
Lại lấy cung Thiên nhuế tới xem là can gì mà nghiệm, hàn nhiệt, hư thực xét rõ tiết khí, mùa lệnh làm nghiệm đích, đừng để sơ sót làm cười cho người. Kẻ học giả nên cẩn thận. (Phần này cần tham khảo thêm tượng tám quẻ dịch cơ bản và tham khảo thêm đông y).
32.Xem bệnh cát hung.
Lấy cung Thiên nhuế tới là bệnh. Lấy 2 cửa Sinh Tử mà suy. Thiên nhuế được cửa Sinh thì sống, được cửa Tử thì chết.
Lại xem sao Thiên nhuế. Thấy tới 2 cung Kiền Đoài là vượng, không trị được. Tới cung Ly, cung 5 giữa thì bệnh giằng dai. Tới 2 cung Chấn tốn thì thần bệnh bị khắc chủ về không thuốc cũng khỏi. Tới cung Khảm là hưu tù, bệnh tuy có mê man còn có thuốc trị.
Bệnh mới mà tới Không vong thì khỏi, sống. Bệnh lâu ngày mà rơi vào Không vong thì chết.
Lại xét Can ngày, có khí tù tử, có thần hung, cách hung, hoặc không được Kỳ môn thì cũng chết.
Ví cung mà Thiên nhuế tới, có thần hung, cách hung, cung Can ngày tuy được khí vượng tướng mà bị Thiên nhuế đến xung khắc Niên mệnh thì cũng chết.
Lại xét Niên mệnh người bệnh, xem Can ngày là gì, nếu thấy nhập Mộ cũng chết.
Cù tiên nói rằng: cửa Tử trên cửa Sinh, xem bệnh là chết rồi lại sống.
Mậu 4 Tân 7 Ất 3
Kỷ 5 Nhâm 8 Bính 2
Canh 6 Quý 9 Đinh 1
Xung-Ất Phụ-Mậu Anh-Quý
Đỗ-Thiên Cảnh-Phù Tử-Xà
Mậu Quý Bính
Nhậm-Nhâm Nhuế-Bính
Thương-Địa Kỷ Kinh-Âm
Ất Tân
Bồng-Đinh Tâm-Canh Trụ-Tân
Sinh-Vũ Hưu-Hổ Khai-Hợp
Nhâm Đinh Canh
VD: Có người hỏi Cha bị bệnh đã lâu, người cha Tuổi Tân Mùi (1931). Ngày hỏi: Ngày Kỷ Mùi (20/03/2008 DL, 15h40), giờ Nhâm Thân, tháng Ất Mão, Kinh chập, hạ nguyên dương độn 4 cục. Người cha mất vào ngày 8/06/2008DL lúc 5 h 20, tức ngày Kỷ Mão, tháng Mậu Ngọ, năm Mậu Tý, giờ Đinh Mão. (VD: lấy ở trang thế giới vô hình).
Đầu tiên xét Can ngày Kỷ Mùi tháng Mão gặp Tử khí là hung. Thần bệnh Thiên nhuế gia Can năm người cha là bệnh hợp chặt vào người bệnh, mặt khác Thiên nhuế gia vào cung Đoài là Thiên nhuế vượng cho nên bệnh nặng không trị được. Tại Đoài cũng có Kinh môn và sao Thái âm gia vào, nếu hỏi về bệnh đều là cách hung, tại Đoài cũng có Bính gia Tân, Bính Tân hợp Chủ về bệnh hợp chặt với người bệnh.
Tại Chi Mùi có Can Quý, Thiên Anh, và Tử môn cũng chủ về thể trạng người này cũng không còn chịu được nữa .
Vậy phải xét xem tới khi nào thì chết.
Tháng này thì Trực phù Thiên phụ được vượng khí, chờ đến khi gặp Tuần thủ có sao Trực ban (Trụ, Tâm) bị Tử khí nào khắc Thiên phụ thì sẽ chết, tháng 4, tháng 5 là tháng hỏa vượng tất Thiên tâm và Thiên Trụ gặp tử khí, tìm đến ngày Thiên Tâm và Thiên trụ trực ban sẽ biết ngày chết, giờ chết.
Khi xem cần xét cả hai phía: Tinh thần và thân thể để định kỳ sống chết.
KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 9
33.Xem mất vật.
Lấy cung Can ngày tới là Chủ mất. Can giờ tới là vật mất, đều lấy loài mà suy.
Thấy cung Can giờ được khí vượng tướng đến sinh Can ngày, lại được Phản ngâm thì được. Tới cung Không vong, Mộ, Tuyệt thì không được.
Kiền là khóa vàng, vật báu, khóa sắt, vật tròn, lại là mũ đội, là ngựa.
Khảm là thủy tinh trân châu, bút mực, lông tóc, vật nhỏ mềm, lại cũng là lợn.
Cấn là ngọc đá núi, đồ đá, vải che đèn, lại là trâu, chó, mèo.
Chấn là xe, thuyền, đồ mộc sắc biếc, vật may quần áo, lại là La, là Lừa.
Tốn là tơ lụa đoạn vải, vật mềm mại, lại là nhiều màu, vật nhỏ dài thành từng đôi.
Ly là văn minh, bản đồ, sách viết tay, ấn tín, quyển văn, chim nhiều màu, áo lông chim ấm. Lại là ngựa.
Khôn là đồng, sắt, khánh, trống, vật bằng kim khí rỗng lại có tiếng, ngà voi, là trâu dê.
Đoài là đồ trang sức bằng vàng bạc, có miệng lồng vào cổ tay. Lại là dê, gà, chim bay. Nếu thấy có khí là vật sống, không có khí là vật chết.
34.Xem người nào lấy cắp.
Lấy Bồng đầu là chủ trộm. Có khí vượng tướng, lại được Kỳ môn, cách cát, là người sang trọng lấy trộm. Không có khí vượng tướng, không được Kỳ môn, cách cát thì bọn tiểu nhân làm trộm.
Cũng phối quái mà quyết. Kiền là ông già. Chấn là trưởng xã. Khảm là trai thứ mới lớn khỏe. Cấn là trai nhỏ tuổi còn bé. Khôn là bà già. Tốn là gái trưởng. Ly là gái nhỡ. Đoài là gái nhỏ. Ở trong là thân cận. Ở ngoài là kẻ khác.
35.Xem bắt trộm cướp.
Đoạt người lấy của gọi là trộm đạo. Giết người cướp của gọi là tặc cướp.
Lấy Thiên bồng là đại tặc, Huyền vũ là tiểu tặc. Câu trận là người đi bắt trộm. Cửa Đỗ là phương bắt được. Đều lấy Thiên bàn làm chủ.
Cung Câu trận khắc cung Huyền vũ, Thiên bồng thì bắt được. Ví 2 cung Bồng, Huyền khắc cung Câu trận thì bọn trộm mạnh, người bắt không dám bắt. Cung Bồng Huyền và cung Câu trận tỷ hòa nhau thì người đi bắt trộm thông đồng với kẻ trộm. Cung Câu trận, Bồng Huyền cùng cung thì người đi bắt chính là trộm. Cung Bồng Huyền sinh cung Câu trận thì người đi bắt nhận hối lộ mà tha.
Đều lấy cách Canh lâm chủ. Gặp Niên cách thì trong năm bắt được. Gặp Nguyệt cách thì trong tháng bắt được. Nhật cách thì bắt được trong ngày. Thời cách thì trong giờ bắt được. Không cách thì không bắt được. Cửa Đỗ có cách cũng bắt được, không có cách thì không bắt được.
36.Khơi tìm dòng nước.
Lấy cửa Khai là chủ. Cửa Khai có khí Vượng tướng, lại được ba Kỳ thì khơi dòng có ích, thuận lợi, không có hại. Nếu cửa Khai gặp Phản ngâm, vào Mộ thì không nên khơi. Ví lại gặp Thái bạch cách hung và Giáp Thìn Nhâm thì sau có hại lớn.
37.Xem nước sông lên xuống.
Lấy Thiên Bồng, cửa Hưu mà quyết.
Cửa Hưu có khí Vượng Tướng mà được ba kỳ thì nước tuy dấy lên nhưng chưa đến nỗi tràn trề. Cửa Hưu có khí Vượng Tướng mà gặp cách Canh, chủ nước sông bị ủng tắc, dâng lên tràn trề. Lại có Giáp Thìn Nhâm, Đằng xà chủ nghiệt long vũ thủy (Rồng nghiệt đùa nước) làm hại.
Cửa Hưu rơi vào cung 2,5,8 Thủy bị Thổ khắc thì nước rút nhanh hoặc không có nước. Cửa Hưu không gặp cách Canh, với Giáp Thìn Nhâm thì nước tuy lên mạnh, nhưng không tràn bờ.
38.Xem gieo trồng mùa lúa.
Lấy 9 sao gặp cửa gì, lấy loại mà suy.
Gặp khí vượng tướng lại được ba Kỳ Cửa cát thì lấy: Cửa Khai Thiên tâm là lúa mỳ. Cửa Thương Thiên xung là lúa nếp hương. Cửa Đỗ Thiên Phụ là lúa nếp hạt to và tròn, lại là hoa bông vải. Cửa Cảnh Thiên ương là kê. Cửa Hưu Thiên bồng là đậu. Cửa Tử Thiên nhuế là lúa kiều mạch, lại cũng là tỏi.
Các cửa, các sao được khí vượng tướng, có ba Kỳ cách cát thì thu được to. Được khí vượng tướng, không được Ba kỳ cách cát thì thu kém. Trong 9 sao có bị khắc hoặc Không vong, vào Mộ mà được cách hung thì hỏng, không nên trồng nữa.
39.Xem mời khách.
Lấy Trực phù là khách, Thiên ất là chủ.
Cung có Thiên ất đến sinh cung có Trực phù thì tất là có đến. Can giờ sinh Can ngày cũng có đến. Sao Thiên bàn sinh sao Địa bàn cũng có đến. Trái thế thì không đến.
40.Xem tuyển phi.
Lấy Trực phù là quan được sai. Can năm là Thiên tử, Thiên trụ là gái trinh.
Can ngày Niên Mệnh của gái trinh được Trực phù sinh thì quan được sai xét trúng tất được tuyển. Thiên trụ được Trực phù sinh cũng được tuyển.
Nếu cung của Trực phù đến khắc cung Can Ngày Niên Mệnh của gái trinh hoặc cung mà Thiên trụ tới là thì không được tuyển.
41.Xem sau khi được tuyển thì ra sao.
Lấy cung có Can Năm và cung Can Ngày Niên Mệnh của gái trinh đến hợp với cung Thiên trụ mà xem.
Cung Can Năm đến sinh cung Can Ngày Niên Mệnh của gái trinh, và cung Thiên trụ thì được Thiên tử vui mừng yêu mến.
Nếu cung Giáp Tý Mậu đến sinh Can Ngày Niên Mệnh và cung Thiên trụ thì rồi sau thành vương phi. Quý nhân khắc cung Niên Mệnh, Thiên trụ thì Thiên tử không vui, phải nên dãi bầy.
42.Xem dẫn người triều cận.
Lấy cung cửa Hưu, Can Năm, Can Ngày Niên Mệnh mà quyết.
Can năm là Thiên tử, Can Ngày là người dẫn triều kiến, Can Ngày Niên Mệnh được Can Năm đến sinh, lại có Ba kỳ cùng phù thì toàn tốt. (Can Năm sinh can Ngày là bề trên đã tin dùng người tiến cử, Can Năm sinh Can Niên Mệnh là bề trên gặp mặt đã thích người được tiến dẫn). (mọi việc cứ thế mà suy).
Lại có cung cửa Hưu được Kỳ Nghi tới thì dẫn đến Thiên tử tất vui mà được mến chuộng.
Như Can Năm không đến sinh cung Can Ngày Niên Mệnh, cũng không khắc chế, mà cửa Hưu được Kỳ đến sinh cung Can Ngày Niên Mệnh cũng tốt. (Cửa Hưu là cửa tốt, lợi về việc yết kiến quý nhân, nay đến sinh Can ngày tất cuộc gặp đó được Quý nhân yêu mến).
Nếu Can Năm đến khắc Can Ngày Niên Mệnh, lại vào Không vong, Mộ, Phế, cùng là cửa Hưu không được Kỳ Nghi cách cát thì không lợi.
43.Xem mồ mả.
Đất mồ mả là nơi người chết ở, lành thì được phúc, hung thì có họa. Bởi vì linh hồn tổ tiên ở nơi Suối vàng mà yên thì con cháu hưng vượng, không yên thì con cháu bại vong.
Nếu chưa táng mà xem trước thì phép này chuyên trách cứ vào cửa Tử và sao ở 2 bàn Thiên Địa mà quyết.
Lấy Sao Địa bàn ở cung cửa Tử là người chết, Sao thiên bàn ở cung cửa Tử là người sống. Cung cửa tử có ba kỳ cùng với sao Địa bàn sinh nhau, hòa nhau, không khắc chế nhau thì người chết yên. Sao Địa bàn sinh sao Thiên bàn, sao Thiên bàn được Ba kỳ thì người còn người mất đều yên lành, sau rồi hưng vượng.
Ví cung cửa Tử cùng với sao Địa bàn cung khắc nhau thì người sống, người chết đều không yên. Sao Địa bàn khắc sao Thiên bàn, không có Kỳ môn hộ trì thì người sống người chết đều hung, cửa Tử phản ngâm thì rời đi nơi khác sẽ cát. Cửa Tử gặp Không vong thì đất không có khí, sơ nhà báu người chết.
Lại lấy Can gì, thần gì, cách gì mà suy. Được sao cát, can cát, sinh vượng thì cát. Thần hung, cách hung, can khắc chế thì hung.(Đây là nói sao Thiên bàn. Đáng ngờ là nói sao của 2 bàn trên dưới. Vậy nên đợi gặp bậc cao minh mà hỏi).
44.Xem sáu giống nuôi chạy mất.
La, lừa, thuyền xe thì lấy cửa Thương làm chủ. Trâu dê thì lấy cửa Tử làm chủ. Xem đến nơi nào trên thiên bàn thì đi về phương ấy mà tìm. Ngựa thì lấy sao ở cung Kiền, Đoài làm chủ. Nếu được sao Thiên Bồng thì nên đi đến xứ gần nước mà tìm. Như có Huyền vũ là người lấy trộm đem đi. Ngày tìm được phải được cách Canh.
45.Xem văn võ lên chức.
Phép lấy 2 cửa Khai, Đỗ làm chủ. Quan văn thì xem cửa Khai. Quan võ thì xem cửa Đỗ.
Hai cửa có Ba kỳ, lại được vượng tướng sinh nhau, sinh can Ngày Niên Mệnh thì tất được thăng chức. Thái tuế lâm sinh Can Ngày Niên Mệnh tất là có Thiên tử đặc chỉ. Trực phù lên sinh là Ty trên bảo cử. Nguyệt kiến đến sinh can Ngày Niên Mệnh và cửa Khai là bộ thân bảo cử. Cửa Khai lại được vượng tướng sinh nhau thì lên chức nhanh. Được cửa, không được Kỳ cũng thăng. Được Kỳ, không được Cửa thì chỉ được gia hàn chứ không được thăng.
46.Xem giáng chức.
Cửa Khai bị khắc, quan văn giáng chức. Cửa Đỗ bị khắc, quan võ giáng chức. Phản ngâm thì chuyển đi nhận nơi khác. Không vong thì tất bị cách chức. Vào Mộ không những bị giáng phạt mà còn bị tội lỗi nữa.Thái tuế đến khắc thì Thiên tử không vui. Trực phù đến khắc thì Ty trên bắt tội. Can Tháng đến khắc thì bộ thần bắt tội.
Như thấy Huyễn vũ là án trộm cắp. Bạch hổ là án mạng. Chu tước là Ấn tín. Đằng xà là chịu trách phạt. Thái âm thì bãi chức. Lục hợp, Câu trận là bị bắt.
Nếu 2 cửa Khai Đỗ vượng tướng sinh nhau với cung, hoặc được Ba kỳ, cách cát thì tuy có bị bắt bẻ mà không ngại.
47.Xem cầu quan.
Lấy cung cửa Khai và cung Can Ngày Niên Mệnh mà quyết.
Cung cửa Khai sinh cung Can Ngày Niên Mệnh, lại được ba Kỳ, cửa cát, cách cát thì được quan phải nhanh. Không được Ba kỳ, cửa cát, cách cát thì được quan chậm. Gặp Phản ngâm thì không được.
48.Xem đi nhận chức phương nào.
Lấy thiên bàn cửa Khai tới cung mà quyết. Cửa Khai tới 4 cung trong thì gần, tới 4 cung ngoài tất đi xa. Độn dương từ Khảm đến Tốn là trong, từ Ly đến Kiền là ngoài. Độn Âm thì ngược lại.
Lại lấy Can ở địa bàn mà chia ra thành 9 châu: Giáp là Tề, Ất là Đông di, Bính là Sở, Đinh là Nam man, Mậu là Hàn Ngụy, Kỷ là Trung Châu, Canh là Tần, Tân là Tấn, Nhâm là Yên, Quý là Bắc dịch.
Tý là Tề, Sửu là Ngô, Việt. Dần là Yên. Mão là Tống. Thìn là Trịnh, Hàm đan. Tỵ là Sở. Ngọ là Chu. Mùi là Tần. Thân là Tấn. Dậu là Triệu. Tuất là Lỗ. Hợi là Vệ.
Thấy Huyền vũ thì dân ấy nhiều trộm cắp. Thấy Bạch hổ chủ hay đánh nhau gây thương tích. Thấy Chu tước thì hay kiện cáo. Thấy Đằng xà thì nhiều điều quái lạ. Thấy Thái âm thì hay gian dâm.
Thiên ẤT, Thanh long, Lục hợp là nơi có lễ nghi, phong tục tốt. Câu trận thì lắm tranh nhau về đất cát.
49.Xem đồng sinh thi.
Lấy sao Thiên phụ là quan hỏi thi, Kỳ Đinh là văn chương. Can ngày là đồng sinh.
Kỳ Đinh có Cửa (Môn) đến sinh Can Ngày Niên Mệnh, hợp môn cát, cách cát mà được Thiên phụ đến sinh tất đậu cao. Hoặc Can Ngày Niên Mệnh, Kỳ Đinh hợp Môn cát, cách cát, không được Thiên phụ đến sinh cũng được đậu. Kỳ Đinh, can ngày Niên Mệnh không được Môn cát, cách cát mà có Thiên phụ đến sinh thì là văn hiến thi ân, không vì văn chương hay dở mà cũng được lấy đậu.
Ví Phản ngâm, Phục ngâm, vào Mộ là có chép lại văn cũ, không được lấy đậu. Rơi vào Không vong thì văn làm chưa xong.
Kinh Thương 2 cửa là quyển văn bị cắt xén. Cửa hưu có thần hung, cách hung xung khắc can ngày Niên Mệnh thì là văn chương có tẩy xóa nhem nhuốc.
50.Xem thi tuế khảo.
Lấy sao thiên phụ là quan trường, Can Ngày là trò đi thi. Kỳ Đinh là văn chương.
Thấy Thiên phụ đến sinh Kỳ Đinh và Can ngày Niên Mệnh, lại hợp Kỳ Nghi cách cát, có 3 cửa cát thì tất là rất cát, đỗ đầu. Như Kỳ Đinh, Can Ngày Niên Mệnh tới cửa Cảnh thì đậu thứ nhì. Được Môn không được Kỳ, được Kỳ mà không có Môn, hoặc cùng Thiên phụ tỷ hòa thì đậu thứ 3.
Như Kỳ Đinh gặp cung Không vong, Can Ngày Niên Mệnh lại gặp thần hung, cách hung thì đậu thứ tư.
Nếu bị Thiên phụ đến khắc thì rớt.
51.Xem khoa cử.
Lấy Trực phù là quan chánh chủ khảo. Can tháng là phó chủ khảo. Thiên Ất, Chu tước là văn chương, là quan trong rèm. Cửa Cảnh, Kỳ Đinh Can Ngày là sĩ tử.
Lấy cung Trực phù sinh cung Can ngày là cung cửa Cảnh, Kỳ Đinh, lại hợp thành cách cát thì chắc đậu cao. Can tháng đến sinh cũng vậy. Chu tước đến sinh Cửa Cảnh, Kỳ Đinh thì quan trong rèm gắng tiến, không sinh thì không tiến.
Cung cửa Cảnh, Kỳ Đinh khắc cung Trực phù, Can tháng thì quyển văn tuy hay mà chủ khảo không ưa. Khắc cung Chu tước thì không tiến. Gặp cách hung thì văn chương lạc đề, gặp Không vong, vào mộ thì phạm trường quy. Gặp Huyền vũ thì lời văn ngoa ngoắt sai lạc, không trúng. Can Ngày gặp cung Không vong, được Trực phù, can tháng đến sinh thì văn chương tuy hay mà trên bảng không tên. Trực phù, Can Ngày, Chu tước tới Không vong thì quyển văn không vào mắt chủ khảo, vào Mộ cũng không trúng. Sau trường thấy 2 ngựa Thiên mã, Dịch mã và Thái xung thì không trúng, cần gì đợi xem bảng.
52.Xem thi đình
Lấy cửa Cảnh, Kỳ Đinh là văn chương.
Như cung can Năm đến sinh cung cửa Cảnh, Kỳ Đinh, lại được Kỳ môn cách cát tất trúng đỉnh giáp. Cung Can Năm sinh cung cửa Cảnh, kỳ Đinh, không được Kỳ môn cách cát thì trúng nhị giáp. Cung can Năm không sinh cung cửa Cảnh, kỳ Đinh, mà cửa kỳ này lại vượng tướng thì trúng tam giáp. Cung can năm không sinh cung cửa Cảnh, kỳ Đinh, lại Phản ngâm, vào Mộ thì không trúng. Hoặc khắc cung can Năm, lại có thần hung thì không những không trúng lại còn bị tội nữa.
53.Xem khoa thi võ.
Lấy sao Thiên xung là quan giám thí. Lấy Can Ngày là người đi thi. Giáp Tuất Kỷ là cái cung. Giáp Thân Canh là mũi tên, cửa Cảnh là văn bài. Cửa Thương là ngựa.
Giáp Tuất Kỷ, Giáp Thân Canh cửa Thương đều tới cung vượng tướng, cùng can Ngày cùng sinh nhau thì trường ngoài thi hợp, khắc nhau thì trường ngoài trở cách.
Lại lấy Giáp Ngọ Tân là hồng tâm, Canh trên cung Tân thì tên bắn trúng hồng tâm. Canh tới Cấn Kiền thì tên bắn trúng 4 góc. Tới Tốn Chấn Khôn Đoài thì tên bắn trúng hai bên. Tới Không vong thì tên bắn không trúng. Canh tới cung gần kể như không trúng. Niên Mệnh Can Ngày được Thiên xung đến sinh lại kiêm cửa Cảnh Kỳ Nghi có cách cát thì bắn trúng, trái thế thì không trúng.
Vũ đồng (trẻ nhỏ thi võ) cũng phỏng thế.
Văn Hán Văn Dịch
Chiêm nhân sinh quý tiện Xem kiếp người sang hèn
Kỳ pháp tiên minh Phép này trước xét rõ
Đối cửu lý nhất tố tâm Đội chín giẵm một cầu tìm
Tiết khí siêu thần bát môn phối hợp cửu cung Khí tiết thần siêu Tám môn phối với chín cung
Cửu cung yêu đới tam kỳ Chín cung cần có ba kỳ
Niên Nguyệt Nhật Thời yêu vượng tướng Năm tháng ngày giờ cần vượng tướng
Bát Môn cửu cung tu suy di Tám cửa chín cung phải đối giờ
Ly cung đấu diện Cung Ly đấu mặt
Kiền Cấn lưỡng túc Kiền Cấn hai chân
Kiền Nhĩ Tả thủ : Khôn Vai, Tai , tay tả : Khôn
Tốn, Chấn tại hữu thủ cân Tốn, chấn là tay hữu, gân
Khảm vi âm thận Khảm là âm thận
Trung vi tâm phúc Giữa: bụng, long, phân
Niên can phụ mẫu, Nguyệt can Huynh đệ, Nhật can bản thân, Thời can thuộc Nhi Can năm cha mẹ, Can tháng anh em đó, Can ngày thân ta, Can giờ con nhỏ tìm.
Suy cập thê thiếp, đấn khán Ất Đinh chi lạc cung Suy tới vợ cùng thê thiếp, xem nơi Ất Đinh tọa lạc cung
Canh vi phụ định bất di Canh là chồng phép không sai lệch
Yếu tường tê kỳ cường nhược, tức năng quyết kỳ vinh khô Xét mạnh yếu mà định bổng chìm, tức biết sang hèn.
Vượng tướng đắc kỳ, thả phú thả quá Vượng tướng thêm Kỳ vừa sang vừa có
Tử Tù Mộ Tuyệt cực tiện cực ban Tử Tù Mộ Tuyệt vừa khó lẫn hèn
Cách cục yêu phân kinh trọng Cách cục chia ra năng nhẹ
Mệnh vận nghiệm kỳ đắc thất Mệnh vận nghiệm ở mất còn.
Vị bô cục tiền khán Cô Hư Chưa bày cục, trước xét Cô Hư
Vượng tướng tức khai khẩu tất biện Vượng tướng thì mở miệng rộng bàn
Thiên địa thừa thời Thái Bạch nhập Kiền Khôn, phụ mậu tảo niên luân một. Ngẫm theo trời đất: Thái Bạch tới Kiền Khôn , Cha Mẹ tuổi thơ khuất bóng
Như nhược lâm huynh đệ cung vị, thủ túc cánh thi thủ địch Nếu lâm cung huynh đệ, tay chân lục đục thù ghen.
Nhật Kỳ bị Hình ,Trang Sinh ta thán Nhật kỳ bị Hình, thầy Trang than thở
Thời trang phùng chí Đặng Thông cô nhi Can giờ gặp phải Đặng Thông không con
Sinh Môn sản nghiệp Cửa sinh sản nghiệp
Yếu đắc Môn Kỳ Môn Kỳ phải cần
Thành bại phân ư nội ngoại Trong ngoài chia phần thành bại
Sinh khắc quyết kỳ đắc thất Sinh khắc là lẽ mất còn
Sinh Môn Thái Bạch phùng sung hãm, bôi to ly hương chi khách. Cửa Sinh Thái Bạch hãm cung, xa tổ ly hương làm khách
Bị cung khắc phục tận phụ tận tỏ phụ cựu viên Ví lại thấy bị xung bị khắc: ruộng vườn tiên tổ bán sạch trơn.
Sinh tại ngoại nhi thân tại nội, tất thiên cư nhi phát phú. Sinh ở ngoài mà thân ở trong, rời tổ ra ngoài mà giàu có
Thân tại ngoại nhi thân tại nội, túng hữu tổ nghiệp việc nan dong Thân ở ngoài mà sinh ở trong, của cha mẹ để lại chắp chân bon
Thân sinh nhị cung câu tại nội an hưởng Lộc Mã Thân sinh hai cung đều ở trong, an hưởng ngựa xe tớ thầy phúc ấm
Thân sinh cầu tại ngoại cung viên phương sáng lập chi thân Thân sinh hai cung ngoài đóng, phương xa gây dựng làm nên
Nhật Trực Cô thời trực Hư thiếu niên vô ý Ngày gặp Cô giờ gặp Hư tuổi trẻ không nơi nương tựa
Thời lạc Cô nhật lạc Hư lão hậu quan độc Giờ gặp Cô ngày gặp Hư về già góa bụa chon von
Mệnh bị xung khắc khất thực đạo lộ Mệnh bị khắc xung, ăn mày đường phố
Nhật lâm Tuyệt Mộ nan thích sầu my Ngày vào Tuyệt Mộ khó tránh mày nhăn
Tai vượng sinh quan, cái nhân “Phi điểu điệt huyệt” Tài vượng sinh quan vì được cánh chim bay về tổ ấm
Ngao đầu độc lập, tất đắc “thanh Long phản thủ” Ngao đầu đứng riêng, bởi được phương Rồng xanh ngoái cổ lên
Thiên Phụ vượng tướng, đắc Kỳ Môn, văn minh hàn uyển Thiên Phụ vượng tướng, được Kỳ Môn, vườn Hàn rạng rỡ.
Thiên Xung vượng tướng đắc Kỳ Nghi, uy chấn biên cương Thiên Xung vượng tướng được Kỳ Nghi, oai chấn ngoài biên
Thiên Cầm vị chấn trung cung, đắc Kỳ Môn bách quan nguyên thủ Thiên Cầm vị ở cung trung được Kỳ Môn tất trăm quan đầu sỏ
Ương tinh Hữu Bật hợp cát cách, đỉnh nại ( ) nguyên huân. Sao Ương, Hữu Bật hợp cách cát, phải là công cả vượt trên
Thiên Trụ trực ngôn gián nghị Thiên Trụ lời ngay, là quan gián nghị
Thiên Tâm nhập viện, y dược tôi lương Thiên Tâm vào nội, thầy thuốc là quan
Nhậm vị Tả Phụ tư nông chi chức Thiên Nhậm sao Tả Phụ, giữ chức khuyến ruộng vườn
Thiên Nhuế bất khả đắc địa, phùng Kỳ Môn, tao Đống chi lưu Sao Thiên Nhuế mà không đắc địa, gặp Kỳ Môn là phường họ Đổng phong lưu
Bồng tinh vị chấn Bắc viên, đắc Kỳ Môn bạn quân chi tặc Sao Thiên Bồng giữ ngôi phương Bắc, được Kỳ Môn giết chúa là tên
Khai môn hữu kỳ, ứng chi văn chức Cửa Khai có Kỳ, giữ chức quan văn
Thương môn đắc lệnh, định hệ hổ thần Cửa Thương được lệnh, hổ tướng ngồi trên.
Sinh môn đắc Kỳ, Thạch Sùng phú túc Cửa Sinh gặp Kỳ, Thạch sùng giầu có
Cảnh môn hợp cục, Đan Thiên văn minh Cửa Cảnh hợp cục, vẻ sáng Đan Thiên
Kinh môn hợp thức, hiếu biện chi nhân Cửa Kinh hợp thức, người chuyên miệng mép
Kiền cung vi Khai, bạch đầu xuất nhậm Cung Kiền gặp Khai, tóc bạc mới làm quan
Tử môn đắc Kỳ Cửa Tử gặp Kỳ
Chức tại ty Hình Làm quan nơi Hình bộ
Phân bổ Bát Môn tinh thần Chia bảy tám Môn tinh thần
Kỳ Nghi hợp cục giả, hào phú hào quý Kỳ Nghi hợp cục, vừa phú vừa quý
Thất cục giả, hạ đẳng bình quân Không thành cục, bọn thấp dân đen
Khai môn Tâm tinh giai thị Kim tiêu, hữu khí y bốc tinh tường. Nhược trự Tử Tù thủ nghệ tân can. Cửa Khai sao Tâm đều Kim: có khí thì bói giỏi thuốc hay. Gặp Tử Tù công nghệ chân tay khó nhọc
Hưu môn Thiên Bồng đồng nhất Thuỷ tiêu, hữu khí, bính mậu lại dịch. Trực Tử Tù quân ngọ tặc nhân. Cửa Hưu Thiên Bồng cùng Thủy có khí lính cơ thầy lại. Gặp Tử Tù là phường giặc giã binh quèn.
Sinh môn Thiên Nhậm thị Thổ tú, đắc địa giả, điền địa phú túc. Nhược thất thời, đồng công nông vận Cửa sinh Thiên Nhậm là Sao Thổ, đắc địa thì lắm ruộng nhiều vườn; không gặp đất cày sâu vác nặng.
Thương môn Thiên Xung giai vị Mộc tiêu, hữu khí bính lịch chi thủ, Trực Từ Tù : mã hậu tương bôn Cửa Thương Thiên Xung đều Mộc cả, có khí thì thầy cai ngài đội; gặp Tử Tù: hầu ngựa chân quen.
Đỗ môn Thiên Phụ diệc thị Mộc tiêu, hữu khí mãi thị hàn nho; Trực Mộ Tuyệt tăng sơn đạo lâm Cửa Đỗ Thiên Phụ đều là Mộc. có khí thì lạnh lẽo đồ nho, gặp Mộ Tuyệt thầy tăng thầy đạo.
Cảnh môn Thiên Ương thị Hỏa tiêu, hữu khí hành hành uy liệt chi biểu, toàn thất cục trị bạo lực chi nhân Cửa Cảnh Thiên Ương đều thuộc Hỏa, có khí thì đường đường oai vệ. Không thành cục thì gánh vác nhọc nhằn.
Tử môn Thiên Nhuế giai thị Thổ tiêu, hữu khí Triệu Ngụy gia trưởng; trực Mộ Không cơ cùng chi nhân Cửa Tử Thiên Nhuế đều là Thổ, có khí thì Triệu Ngụy đàn anh; gặp Không Mộ mỏng manh kiệt quệ
Kinh môn Thiên Trụ………… Cửa Kinh Thiên Trụ…………..
Bát môn biện biệt vượng tướng, tái luận cửu tinh Tám cửa đã xem vượng tướng, chín sao nay phải đem bàn:
Đắc Thiên Bồng tinh thấu thời, biện cương chi tướng; thất địa lại quân tốt cực nhân Được Thiên Bồng gặp thời lệnh, tất làm tướng trấn biên cương; thất địa lại là quân là giặc
Thiên Nhậm đắc địa, Điền thổ lộc mã chi phú; thụ khắc: nông nô tân khổ chi nhân Thiên Nhậm mà gặp thời, ruộng vườn xe ngựa giàu có; ví bị khắc: cày cuốc khó khăn
Thiên Xung hữu khí giả vũ quý, bối thời xa thuyền giang hồ chi lưu Thiên Xung có khí, võ nên sang; trái thế: thuyền ngựa sông hồ trôi chảy.
Thiên Phụ vi tả khu, đắc chí giả văn nhã sĩ hoạn, thất địa lợi cùng tạo họa công Thiên Phụ là tả khu, gặp thời thì văn hay nhẹ bước; thất thời thì thầy tu, thợ vẽ bon chen.
Thiên Ương hỏa tỵ nam Ly, thừa quyền giả tất chủ văn minh, bội thời giả cham bạo hôn dong Thiên Ương là hỏa phía Nam Ly, được lệnh thì chủ văn minh, không được thời thì bạo tàn ngu tối
Thiên Nhuế bài thị hắc tinh, đắc thiên thời tính ác bá đạo, thất thiên thời mục lị dong công. Thiên Nhuế vốn là sao đen, gặp được thời thì là ác bá, không gặp được thời thì đày tớ lầm than.
Thiên Trụ vị chấn Tây viên, hữu khí giả thiệt biện đượng thế; bị xung khác tu kỹ nhạc công Thiên Trụ phương Tây ngôi Chấn, có khí thì miệng lưỡi nhạo trời , không được khí phường chèo thợ nhạc.
Thiên Tâm nguyên tại Thái Bạch, đắc địa giả tài hoa quốc trụ, nhược Không, Mộ cửu lưu tương tầm Thiên Tâm nguyên là Thái Bạch, gặp được thời tài hoa cột trụ nước. Ví Không Mộ lưu lạc khắp chốn.
Thanh Long phản thủ, ngao đầu độc chiếm Rồng Xanh ngoái cổ, đầu ngao độc chiếm
Phi điểu diệt huyệt, ca phú nhi thành danh Chim bay về tổ, giầu có nổi tên
Thanh Long đắc quang, ấp trưởng huyện lệnh Rồng xanh được sáng, huyện quan, xã trưởng.
Đinh giả Mậu phú gia chi danh Sáu Đinh trên Mậu giàu có tiếng tăm.
Bạch Hổ xướng cuồng, hung ngoan chi bối Hổ trắng gào cuồng, phường ngu bọn ác
Thanh Long đào tẩu, nhu nhược chi nhân Rồng xanh chạy trốn, hèn yếu tồi tàn.
Cánh chủ nhân thê thành bại Vốn đã bại, thành vì vợ
Nhi chủ tả bói là thân Còn mình dựa dẫm nhàn thân
Chu Tước đầu giang, đao bút thư lại Sẻ đỏ lao sông, bút đao thấy lại
Đằng Xà yêu kiều, độc tàn tiểu nhân Rắn bay uốn éo, lòng dạ độc thâm
Thất thời giả mục manh nhĩ quý Không gặp thời mắt mờ tai điếc
Thừa khí giả, hỏa phấn thương thân Khí mà nhiều, lửa đốt thương thân
Thái Bạch nhập Huỳnh-hoặc giả tiến, chủ tiền bận hậu phú, Huỳnh-hoặc nhập Thái Bạch giả thoái, chủ gia nghiệp tiêu điều Thái Bạch vào Huỳnh-hoặc là lên, hẳn phải trước nghèo sau giàu có; Huỳnh-hoặc vào Thái Bạch là xuống, chắc là nhà cửa tiêu tàn.
Thiên Ất Thái Bạch, Thái Bạch Thiên Ất, đa thành đa bại Thiên Ất Thái Bạch, Thái Bạch Thiên Ất, nhiều thành nhiều bại
Thái Bạch đồng cung, huynh đệ lôi phân Thái Bạch cùng cung, sét đánh anh em.
Thái Bạch Bồng Tinh, thê thất thường bệnh Thái Bạch Bồng Tinh, vợ thường bị bệnh
Bồng Tinh Thái Bạch, duy bạc thanh xú Bồng Tinh Thái Bạch rèm mỏng xấu tên
Đại cách giả, bình tích tứ hải Cách Đại thì cánh bèo bốn biển
Tiểu cách giả, tạm thời thanh bần Cách Tiểu thì lắm lúc nghèo hèn
Niên Nguyệt Nhật Thời cá cách, tức…lục thân nhi suy khứ Năm tháng Ngày giờ cách ấy, tức lấy sáu thân mà suy xem.
Khán thị hà cung trắc nghiệm Xem thấy ở cung nào mà lường nghiệm
Nhi vi bội lệ vô lẽ tương tòng Biết rằng sai trái không theo lẽ bên
Suy cập phụ mẫu, huynh đệ, thê tử. hiến thủ khả dĩ tường minh. Suy đến vợ con, anh em , cha mẹ. hơn chăng có thể biết hay liền
Tân vi thiên ngục, Nhâm vi địa lao Tân là ngục trời, Nhâm là lao đất
Chủ là hạ chi phạm, cánh chủ uất ức nan thân Ngôi thì thấp kém , ức ngậm nan ngâm
Quý vi Thiên cương, tu khán cao đô Quý là lưới trời, nên xem cao thấp
Cao giả hóa vi hoa cái, khả suy quý cách Cao ấy hóa là lọng hoa, suy ra cách quý.
Đệ giá Thiên cương triền thân tịch tịch cơ hàn Thấp ấy lưới trời bó thân lạnh lẽo nghèo hèn.
Pha kỵ Ngọc nữ thủ môn Cung kỵ Ngọc Nữ thủ môn cách ấy
Thê tùy nhân hành Vợ theo người khác đi
Ất Đinh thê thiếp khán thị thùy sơ Ất Đinh thê thiếp, xét thân sơ xa gần
Ất kỳ nhập Mộ, thê bất sinh tử Kỳ Ất vào Mộ, vợ không con cái
Đinh Ất đồng cung, biệt tục tương thân Ất Đinh đồng cung, cả lẽ thương bền.
Ất Kỳ tại thượng Ngữa lên thấy ấy
Thê thiếp hiệp hòa Thê thiếp hòa hiệp
Đinh gia Ất thượng, tân hạnh phu tâm Đinh trên có Ất, lòng chồng buồn vui.
Chư cách kỳ lạc không vong Mọi cách kỵ gặp Không vong
Cát giả hàm xương, nhi khổ giả cánh khổ Cát thì may mắn, mà khổ lại khổ thêm.
Nhược lâm Mộ Tuyệt chi địa, vô cáo cùng dân Ví vào Mộ, Tuyệt: đáng mặt dân hèn
Bát môn suy lai, tôi phả phản ngâm Tám môn suy tới, rất sợ phản ngâm.
Phục ngâm diệc thị hung thần Phục ngâm đúng là hung thần.
Ngũ hành phối hợp Năm hành phối hợp
Tư lý thụ hình Ấy lẽ chịu hình.
Tại hồ nhất tâm dư bất tận ngôn đồng chí giả thúc chân. Tại lý một lòng dư không nói hết, bạn đồng chí biết cho
KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP ĐẠI TOÀN – Quyển 10
Xem tớ trai gái đi mất
Tớ trai chuyên trách Thiên bàn cung Thiên Bồng, Tớ gái chuyên trách cung Thiên Nhuế trên Thiên bàn mà tìm thì tất gặp.
Ngày Dương lấy cung Bồng, Nhuế ở địa bàn mà quyết, gặp cách tất gặp. Không có cách thì không gặp. Ví nếu có Lục Hợp cùng theo, tất bị lừa dối đi.
Hai thần vào Mộ khố, có người đem giấu khó tìm được. Nếu gặp Không Vong thì không tìm thấy.
Xem đi mất về phương nào
Tiểu Nhi đi mất, độn dương thì ở phương Lục Hợp thiên bàn, độn âm thì ở phương Lục hợp địa bàn, lấy đấy mà quyết.
Nếu mất tớ gái, độn dương thì ở phương Thái Âm thiên bàn, độn âm thì ở phương Thái Âm địa bàn, lấy đấy mà định. Xét 2 thần ấy là biết người ở phương ấy rồi.
Ở Khảm, Cấn, Chấn, Tốn 4 cung là trong thì là gần. Tới Ly, Khôn, Đoài Kiền là ngoài thì là xa. Độn âm thì trái thế.
Nếu 2 thần tới cung Mộ của Can Ngày thì xa gần cũng khó tìm, tới cung Không-Vong , người ấy lại theo phương khác đi, sau thì lấy cung Thần can hợp mà tìm thì tất gặp.
Xem người đi, ở ngoài
Phép lấy can Ngày Niên Mệnh của người đó mà quyết
Can Ngày Niên Mệnh tới Khảm, Cấn, Chấn, Tốn độn dương là trong là gần; Tới Ly, Khôn, Đoài, Kiền là ngoài là xa, hợp lại mà quyết; Niên mệnh tới 4 cung chính thì thật xa, tới Khôn Cấn lại cực xa.
Độn âm lấy Ly, Khôn, Đoài, Kiền là trong thì gần; lấy Khảm, Cấn, Chấn, Tốn là ngoài thì xa, hợp lại mà quyết. Niên mệnh tới 4 cung chính dưới thì thật xa. Can Ngày Niên Mệnh đến Mộ, Phế, người ở ngoài không được như ý, không khỏe thì cũng bệnh. Nếu Can Ngày Niên Mệnh đến cung Mộ khố Không vong, lại thêm khí Tử Tuyệt thì người ấy không còn. Như Can ngày Niên Mệnh có khí vượng lại được Kỳ Môn, Cách Cát thì người đi ở ngoài phát tài như ý.
Xem người đi và kỳ về
Phép lấy Niên Mệnh của người đi, chuyên trách ở cách Canh. Ngày Dương lấy Can ở dưới Canh làm chủ. Ngày Âm lấy Can ở trên Canh mà định. Cách Niên thì một năm ấy sẽ về. Cách Nguyệt thì tháng ấy sẽ về. Cách Nhật thì ngày ấy sẽ về. Cách Thời thì giờ ấy sẽ về. Không có cách thì không về.
Thế nào gọi là không có cách? Ất Canh là hợp không là cách. Canh Kim vào Mộ hoặc gặp Không Vong là không có cách.
Xem vay nợ
Phép này lấy sao Thiên Bàn ở phương đi đến là người đi vay, lại lấy sao Thiên Bàn chuyển đến sao Địa bàn, sao Địa bàn là nhà cho vay.
Sao Địa bàn sinh sao Thiên bàn thì được vay. Thấy tỷ hòa thì tuy có cho vay nhưng ngần ngại nghi ngờ. Thấy khắc nhau thì không được vay mà còn thêm nhục nữa. Nếu thấy Can ở Thiên bàn vào Mộ khố của Địa bàn thì hẳn keo kiệt không cho vay. Thấy vào cung Không Vong thì hẳn quả là không có, đi vay làm gì.
Xem đánh bệnh trừu phong (chim đả trừu phong)
Lấy cung Can ngày là người đi đánh bệnh. Phương đi đến là xứ có trừu phong. Được Kỳ Môn cách cát sinh Can ngày thì đi là có lợi. Không được Kỳ Môn cách cát mà có đến sinh cũng lợi. Tỷ hòa thì bình bình. Khắc chế cung Can ngày thì đi sẽ bị tổn. Tới cung Không Vong, Mộ, Tuyệt thì không thấy, chỉ khó nhọc vô ích, đi làm gì?
Lời dẫn: chữ Trừu phong, từ điển Đào Duy Anh giải là một thứ bệnh giống bệnh kinh phong. Nếu nghĩa này mà đúng thì có thể đây là một thầy thuốc đi đánh gió, cạo gió gì đấy chăng ?
Xem vào yết quý nhân
Nếu là Quý Nhân hiện đương nhậm quan thì lấy cung của Khai Thiên bàn làm chủ. Chưa đi nhậm hay đã trí sĩ thì thêm Giáp Tý Mậu thiên bàn. Lấy Can Ngày là người cầu vào yết.
Cửa Khai Giáp Tý Mậu có khí vượng tướng, lại được Kỳ Môn Bách Cát đến sinh cung Can Ngày thì đi yết tất gặp, gặp thì có ích, việc cầu như ý.
Cửa Khai Giáp Tý Mậu với Can Ngày tỷ hòa, cầu đến yết chỉ có chậm tý chút. Cửa Khai Giáp Tý Mậu cùng cung thì quý nhân có khách, phải đợi. Nếu cửa Khai Giáp Tý Mậu phản ngâm thì quý nhân đã ra đi, không gặp được. Cửa Khai Giáp Tý Mậu vào Mộ khố thì không gặp. Cửa Khai Giáp Tý Mậu bị chế thì quý nhân có việc lo lắng, không gặp được, có gặp cũng không ích. Cung cửa Khai Giáp Tý Mậu khắc cung Can Ngày thì quý nhân không vui, uổng gặp xấu hổ.
Nếu đến yết quan võ thì xem cửa Đỗ, cũng phỏng theo đây.
Xem sinh trai gái sống lâu
Lấy cung Thiên Bàn mà can giờ sinh tới, xem là cung nào, thần nào. Lấy Thiên Bồng là Thiên Tặc (giặc trời), Huyền Vũ là Du Sinh (sống nổi). Phạm 2 thần này, lại gặp giờ Hưu Phế không khí thì không nuôi được. Nếu có Kỳ Môn, cách cát, thần cát, lại có khí vượng tướng thì mệnh dài và phú quý.
Xem ngày sinh con
Lấy cung Khôn nhà đẻ. Thiên Nhuế là bà mẹ (đẻ). Được sao nào trên thiên bàn là tiểu nhi.
Thiên Nhuế khắc sao trên Thiên Bàn thì sinh mau. Sao Thiên Bàn sinh sao địa bàn Thiên Nhuế thì con luyến bụng mẹ mà đẻ chậm. Sao Thiên Bàn khắc sao Địa bàn thì mẹ hung. Sao Địa Bàn khắc sao Thiên Bàn thì con chết. Nếu có khí vượng tướng và Kỳ Môn, cách cát, thì mới cát. Như sao Thiên Bàn rơi vào Mộ khố địa bàn thì con chết trong bụng mẹ. Thiên Địa 2 Bàn có đều hung, cách hung thì mẹ và con đều hung cho là Thiên Địa 2 Bàn gặp khí Tử, Tuyệt mà thế.
Xem đòi nợ
Lấy cung Thiên Ất tới là người thiếu nợ. Lấy cung Câu Trận tới là người đi đòi nợ.
Cung Câu Trận khắc cung Thiên ất thì người này thật lòng đi đòi nợ. Cung Thiên Ất khắc cung Câu Trận thì người này được sai đi đòi nợ sợ kẻ kia mà không dám đòi. Câu Trận và Thiên Ất sinh hòa nhau thì 2 người thông đồng mà không đòi. Câu Trận bị Thiên Ất sinh thì có phó thác hối lộ mà người sai không chịu đòi. Cung Thiên Ất có khí vượng tướng đến sinh Trực Phù thì tất trả nợ. Ví rơi vào Không Vong mà đến sinh Trực Phù (nên biết Trực Phù là người cho vay) thì có lòng mà sức không trả được. Cung Thiên bồng và cung Thiên Ất mà khắc chế cung Trực Phù thì yên tâm không trả nợ tất không thể đòi được (Bảng nguyên thiếu những dòng dịch ra viết chữ ngã trên đây)
Xem cho vay nợ
Lấy Sáu Giáp Trực Phù là người cho vay, sau dưới Trực Phù là Thiên Ất tức là người vay nợ.
Nếu sao Địa Bàn có khí vượng tướng sinh sao thiên Bàn thì người vay tức trả nợ. Gặp cách hung khắc sao Thiên Bàn thì không chịu trả nợ. Rơi vào Không Vong thì chết cho nên không trả được nợ. Gặp cung Mộ Tuyệt thì vỡ nợ không trả (câu này nói về Can thuộc sao Địa Bàn ).
Xem mua hàng
Lấy cung Can Ngày là người đi mua hàng. Lấy cung Can giờ là hàng.
Cung Can giờ có khí vượng tướng lại được Kỳ Môn cách cát thì hàng tốt. Gặp khí Hưu Tù không được Kỳ Môn cách cát thì hàng xấu hỏng. Cung Can giờ đến sinh cung Can ngày thì hàng không kể tốt xấu thì đều có lợi tức, đến khắc cung Can Ngày, hoặc gặp Mộ Tuyệt Không Vong thì hàng không có lợi thì mua thu làm gì. Ngoài ra lấy loại này mà suy.
Xem thai nam nữ
Phép lấy cung Khôn sao Thiên Nhuế làm mẹ. Lấy Thiên Bàn trên cung Khôn là thai tức sao Dương là thai nam, sao Âm là thai nữ. Duy Thiên Cầm tới thì sinh đôi. Can dương là nam, Can âm là nữ.
Xem trao hàng kiếm tiền (thoát hóa cầu tài)
Lấy Trực Phù Giáp Tý Mậu là Ta, Lấy Thiên Ất là người trao hàng. Lấy Lục Hợp là người mối.
Ví cung Thiên Ất có Kỳ Môn Cách cát đến sinh cung Trực Phù thì hàng ấy có thể trao; Tỷ Hòa thì trao cũng không ngại. Trái thế thì không trao được, mà trao thì mất.
Lại xem cung Lục Hợp thấy sinh cung Thiên Ất thì người trao hàng và người mối đều cát; sinh cung Trực Phù và cung Giáp Tý Mậu thì người mối và người trao hàng đồng lòng. Ví Lục Hợp vào Mộ hoặc rơi cung Không Vong thì chắc có sự gian trá dối trá, không thể trao hàng.
Xem buôn bán lấy lời: (Thục: hóa cầu tài)
Lấy cung Can Ngày là chủ hàng. Cung Can Giờ là hàng. Cung Giáp Tý Mậu là vốn. Cung Cửa Sinh là lợi tức.
Thấy cung Can ngày sinh cung Can giờ thì người tiếc hàng không chịu giao, Ví cung Can giờ sinh cung Can ngày thì hàng luyến người không trao được.
Lại xem cung Can giờ sinh cung Giáp Tý Mậu và cung cửa Sinh thì có lợi tức. Trái thế thì không có lợi tức.
Nếu cung Can giờ có Thần hung, cách hung đến xung khắc cung Can ngày thì có hao hụt.
Duy cung Can Ngày khắc cung Can giờ, tuy muốn trao hàng gấp mà vẫn mắc chậm. Cung Can giờ khắc cung Can ngày, bán ra tất nhanh.
Xem mở quán hàng
Lấy Cửa Khai mà chủ.
Cửa Khai có khí vượng tướng, thêm Kỳ Môn cách cát đến sinh cung Can Ngày thì cát lắm. Thấy Tỷ hòa, không khắc chế thì cát vừa.
Ví cửa Khai vào Mộ hoặc Phản ngâm và rơi vào Không Vong thì không lợi.
Cung Cửa Khai có thần hung, cách hung đến xung khắc Can ngày, cũng không lợi.
Xem hợp nhau cầu tài
Lấy cung Can ngày là Ta. Cung Can giờ là kể của bọn.
Can giờ có Kỳ Môn cách cát đến sinh Can Ngày thì hợp tổ có ích cho ta. Can Ngày có Kỳ Môn, cách cát sinh Can giờ thì có ích cho người. Hai cung tỷ hòa thì hợp vốn công bình. Không ai sai suyến. Ví cung Can giờ có thần hung, cách hung đến khắc cung Can ngày thì không lợi.
Lại xem Cửa Sinh có sinh Ta, hay không sinh Ta mà suy ra trăm điều không sai một.
Xem đổi chác
Lấy Giáp Tý Mậu là vốn, Cửa Sinh là lợi tức.
Cung Cửa Sinh được Kỳ Môn cách cát đến sinh cung Giáp Tý Mậu thì được lời bội. Hai cung tỷ hòa cũng được lợi trung. Cửa Sinh đến khắc cung Giáp Tý Mậu lại có thần hung cách hung thì thiệt vốn. Cung Giáp Tý Mậu sinh cung Cửa sinh thì phải thêm vốn mới được lợi tức. Ví Cửa Sinh tới đến Mộ Tuyệt lại có thần hung, cách hung thì hao hụt hết vốn. Hung lắm.
Xem cầu tài
Lấy Giáp Tý Mậu là thần tài. Cửa Sinh là phương có tài. Xem Thiên bàn 2 cung tới phương nào. Lấy 2 phương ấy có sinh khắc tỷ hợp mà nghiệm được mất.
Thiên Bàn Giáp Tý Mậu với cửa Sinh tới 4 cung Khảm, Cấn, Chấn, Tốn độn dương là trong là gần, lại là nhanh, lại được Kỳ Môn, cách cát thì tất được nhiều. Ví được Môn không được Kỳ, được Kỳ không được Môn thì được không nhiều. Môn Kỳ đều không được, không rơi phải Không Vong, Mộ, Tuyệt, không bị địa bàn khắc chế thì được ít.
Hoặc Giáp Tý Mậu và cửa Sinh tới một ở trong, một ở ngoài thì được chậm. Hai cung đều ở ngoài thì cầu tài ở ngoài ngàn dặm. Hai cung rơi vào Không Vong, Phản ngâm, Mộ, Tuyệt, lại có thần hung, cách hung thêm vào thì không được tài.
Xem giao dịch
Lấy cung Can Ngày là Ta. Cung Can giờ là người. Lục Hợp là người mối
Can Ngày sinh Can giờ chủ mua chịu đặt. Can giờ sinh Can ngày nghiệp chủ ý muốn (nguyện ý). Can ngày khắc Can giờ, chủ mua không đằm thắm (bất yếu). Can giờ khắc Can ngày thì nghiệp chủ không bán.
Lục Hợp sinh Can ngày thì người mối về phe chủ mua. Sinh Can giờ thì về phe người bán.
Hai cung của 2 Can tỷ hòa nhau thì 2 nhà công bình, giao dịch thành. Hai can có một rơi vào Không Vong thì giao dịch không thành.
Xem mua nhà cửa
Lấy Trực Phù là chủ mua, Cửa Sinh là nhà trọ. Cửa Tử là đất cát.
Hai cửa Sinh Tử có 3 Kỳ cách cát, đến sinh cung Trực Phù thì mua rồi sẽ phát đạt. Hai cửa không được cách cát, đến sinh cung Trực Phù thì bán rồi sẽ phát đạt. Hai cửa không được cách cát, đến sinh cung Trực Phù thì trung cát, tỷ hòa bình an.
Hai Cửa gặp khí Hưu Phế lại có thần hung, cách hung đến khắc cung Trực Phù thì mua rồi sẽ phá bại gia tài. Trực Phù sinh 2 cửa này thì nhân mua nhà mà sinh lụn bại không lợi.
Xem người thọ yểu cát hung
Phép lấy 2 sao Xung, Trụ hợp cửa Tử xa gần mà định.
Nam thì lấy sao Thiên Xung khởi bầy thuận Kỳ Nghi. Nữ thì lấy sao Thiên Trụ khởi bầy nghịch Kỳ Nghi. Xem đến cửa Tử thì còn cách mấy cung. Mỗi cung là 10 năm. Khởi tính đến cửa Tử bao nhiêu là thọ bấy nhiêu số 10 năm tròn. Lại lấy 1 cung là 1 năm, xem lẻ bao nhiêu thì là số năm còn lẻ. Lấy 4 chính cung, mỗi cung chỉ là 1 cung. Duy 4 góc thì tính làm 2 cung. Vì rằng 4 cung góc có 8 chi.
Xem Niên Mệnh cát hung
Lấy phương người lại hỏi, xem từ đâu, hợp với giờ đúng của Trời Đất (thiên địa chính thời) và phương của Niên Mệnh lại mà suy.
Phương lại được Kỳ Môn, cách cát thì Niên Mệnh ấy tất cát. Cung Niên Mệnh hợp Kỳ Môn cách cát cũng cát. Phương Niên Mệnh cũng có Kỳ Môn cách cát, lại có khí vượng tướng tất có gặp may mắn hoạnh phát (phát mạnh). Vào Mộ khố địa bàn thì mờ mịt (hôn hôi). Rơi vào Không Vong thì trăm việc không thành. Vào cửa Tử thì chết; cửa Thương thì bệnh; cửa Kinh thì cãi cọ mang tiếng, kiện cáo; cửa Cảnh thì đổ máu, tai lửa; cửa Đỗ thì lo lắng; cửa Khai thì gặp người quý; cửa Hưu thì tiến đến yết người quý; cửa Sinh thì phát tài, có mừng.
Đại để được Kỳ Môn thì cát, gặp của hung cùng khắc Niên Mệnh thì hung, không khắc thì có hung nhỏ.
Xem Nạp sủng (được yêu)
Lấy Kỳ Ất là Thê, lấy Kỳ Đinh là Thiếp, Thái Bạch Canh Kim là chồng.
Ví cung Ất, Đinh sinh cung Canh thì người gái chịu lấy chồng, Cung Ất Đinh khắc cung Canh thì không chịu lấy, Cung Ất Đinh hòa nhau, hợp nhau thì thiếp hòa hiệp. Như Ất khắc Đinh thì Thê không dung được Thiếp. Hoặc Đinh khắc Ất thì thiếp muốn đòi Thê.
Ví cung Ất Đinh hãm trong cung Mộ Tuyệt thì không thể thành, thành cũng không lợi. Như Canh Kim sinh cung Kỳ Đinh thì có khó nhọc mà không thành.
Xem hôn nhân
Lấy Canh kim là nhà trai, Kỳ Ất là nhà gái, Lục Hợp là người mối.
Cung Canh sinh cung Ất thì nhà trai yêu nhà gái ? Cung Ất sinh cung Canh thì nhà gái yêu nhà trai. Được Kỳ Môn cách cát thì hôn nhân thành, tỷ hòa không khắc chế nhau cũng thành.
Ví cung Canh khắc cung Ất thì nhà trai hiềm nhà gái không thành. Cung Ất khắc cung Canh thì nhà gái hiềm nhà trai mà không thành. Nếu thành gượng thì sau có hình khắc.
Canh Kim vào Mộ có cách hung thì hình chồng, Kỳ Ất vào Mộ có cách hung thì hình thê.
Xem mưa
Lấy sao Thiên Cầm là chủ giữ mệnh (tư mệnh chi chủ) Thiên Trụ là Thầy mưa (Vũ sư). Thiên Xung là thần Sấm (lôi thần). Thiên Phụ là bác gió (Phong bá). Đằng Xà là chớp (điện quang). Thiên Bồng là thần nước (thủy thần). Giáp Thìn Nhâm là thần Rồng (long thần).
Thiên Cầm tới vượng tướng, Thiên Trụ, Giáp Thìn Nhâm quanh ở cung 1-3-7 hoặc dưới là Giáp Thìn Nhâm thì mưa to. Có tới Giáp Dần Quý, dưới có Giáp Dần Quý ở cung 1-3-7 đến thì mưa nhỏ. Giáp Thìn Nhâm tới cung Chấn là Rồng lên cửa Sấm (Long đằng Lôi Môn) thì có mưa, có sấm. Đinh tới Đằng Xà địa bàn thì có chớp nháy. Gặp cửa hung, tới Đằng Xà địa bàn là Rồng sấm phát rồng giao chấn quái (Lôi Long phát giao chấn quái). Rơi vào cung Không Vong Mộ khố thì mây mù không mưa.
Tháng Đông, xem sao Thiên Tâm và Thiên Nhậm thổ, có tới Nhâm Quý, dưới có Nhâm Quý, hoặc gặp Huyền Vũ, Bạch Hổ thì là Thủy Thổ kết đọng làm tuyết. Không vong vào Mộ thì lạnh âm.
Lai xem thấy Hổ trắng gào cuồng (Bạch Hổ xướng cuồng) thì gió to. Rồng xanh chạy trốn (Thanh Long Đào Tẩu) thì nổi gió, mây tan, không mưa. Bạch vào Huỳnh thì mưa đá, Huỳnh vào Bạch thì tạnh.
Nếu Thiên Trụ quanh đến cung 1-3-7 dưới có Nhâm Quý, hoặc dưới là cung Nhâm Quý không thấy Nhâm Quý mà thấy Đằng Xà thì cầu vồng mọc, không mưa. Như cung tới mà dưới có Chu Tước, hoặc rơi vào Không vong thì khô nỏ, không mưa, nếu cố cầu thì có tai lửa.
Xem dựng lò vôi
Phép xem lấy cửa Cảnh làm chủ.
Cửa Cảnh được khí vượng tướng, có ba kỳ cách cát đến sinh Can ngày Niên Mệnh ta thì cát, dựng được. Nếu tới thần hung , cách hung khắc Can ngày Niên Mệnh ta thì hung.
Gặp cách sẻ đỏ lao sông (Chu tước đầu giang). Rắn bay uốn éo (Đằng xà yêu kiều) thì hung lắm, đoán là không dựng được. (hết quyển 10).

1 nhận xét:

Được tạo bởi Blogger.