Header Ads

NGỌC HẠP CHÍNH TÔNG

NGỌC HẠP CHÍNH TÔNG (tiếp theo).

XEM COI TÁM CUNG CỦA MƯỜI HAI TUỔI


Bài này để xem mười hai tuổi sinh thuộc tám cung theo Bát Quái và làm nhà trở cửa cái theo hướng sinh(1). Còn mặt bếp chỉ có hai hướng thuận là hướng Đông và Tây mà thôi (Hỏa môn triều Đông, triều Tây, sách Bát Cẩm Trạch Minh Kiểng).
(1) Về phương hướng chỉ kể tuổi của người đàn ông mà thôi. Khi nào người đàn bà độc thân mới lựa phương hướng theo tuổi đàn bà.
Cung Càn số này thuộc Kim,
Người có nghề nghiệp tinh chuyên đủ điều,
Hướng sinh cho thuận mới bền,
Thiên thời, địa lợi, nhân hòa làm nên.
Cửa cái Tây Bắc ngó ra,
Bốn phương thuận tiện làm ăn vững bền.
Số này sau có đất điền,
Tha phương tự lập chẳng nhờ đệ huynh.
Xét xem căn số nợ duyên,
Trai thay đổi vợ, gái thì truân chuyên.
Tuổi nhỏ đau ốm liên miên,
Lắm lần tai ách tưởng chầu Diêm vương.
Số này trường thọ sống lâu,
Khi thác con cháu phò quan linh đình.
Có nhạc, có trống, có Sư tăng,
Tụng kinh phổ độ hồn về Tây phương.
Tuổi Tuất, Hợi làm nhà trở cửa về hướng Tây Bắc hay là hướng Đông Bắc cũng khá.
CUNG KHẢM:
Cung Khảm chính Bắc hướng sinh,
Cửa cái đúng hướng thuận hòa làm nên.
Số này thuộc Thổ tánh hiền,
Ý hòa, trí sáng, tánh tình hiền lương.
Ăn ở thuận ý hương lân,
Chẳng hay tranh cãi, chẳng hề tham lam.
Xét xem căn số nợ duyên,
Tình đầu lỡ dở, hiệp hòa duyên sau.
Đến đâu cũng gặp bạn lành,
Đỡ nâng mọi việc, lập thân xứ người.
Tuổi này trường thọ niên cao,
Khi thác con cháu đón đưa linh đình.
Có nhạc trống đến đưa linh,
Có sư phổ độ hồn về Tây phương.
Số thọ sáu mốt (61) mà thôi,
Ăn ở hiền đức sống ngoài bảy mươi.
Tuổi Tý làm nhà trở cửa về hướng chính Bắc hay là hướng Đông Bắc cũng được.
CUNG CẤN:
Cung Cấn số này luận ra,
Cung này thuộc Thổ, Đông Bắc hướng sinh.
Số này xuất ngoại làm nên,
Vì có nghệ thuật tinh chuyên hơn người.
Đến đâu cũng được yêu vì,
Làm ăn mọi việc chỉ nhờ người dưng.
Căn duyên chồng vợ thuận hòa,
Con cái có ít gia đình yên vui.
Số gái cũng được vinh sáng,
Có chồng quyền quí, môn đình được an.
Số thọ ghi bảy mươi ba (73),
Khi thác cũng được họ hàng đưa đông.
Có nhạc trống có Sư tăng,
Tụng kinh phổ độ hồn về Tây phương.
Khá nên tích thiện tu thân,
Ngày sau con cháu hưởng nhờ phúc dư.
Tuổi Sửu và tuổi Dần làm nhà trở cửa cái về hướng Đông Bắc hay Tây Bắc cũng được.
CUNG CHẤN:
Cung Chấn thuộc Mộc, chính Đông,
Người sinh cung ấy sáng thông ai bì.
Cửa cái trời mọc là hay,
Làm nên sự nghiệp an khương gia đình.
Số này cũng lắm gian truân,
Tha phương lắm nỗi, phong sương hải tần.
Cung mạng lỡ dở duyên đầu,
Duyên sau chấp nối thuận hòa yên vui.
Số gái cũng số thanh cao,
Có chồng quyền tước dự hàng công khanh.
Của, con có sẵn tuổi già,
Khi ra phong nhã, khi vào hào hoa.
Số thọ ghi sáu mươi ba (63),
Tu nhân tích đức sống ngòai bảy mươi (70).
Cháu con đưa đám đủ đông,
Hòa thượng dẫn độ đề phan độ hồn.
Cung Chấn thuộc Mộc số này,
Mộc thì khắc Thổ, thác vào tháng năm.
Tuổi Mão làm nhà trở cửa cái về hướng chính Đông hay là Đông Nam cũng được khá.
CUNG TỐN:
Cung Tốn thuộc hướng Đông Nam,
Chính Bắc sinh khí, thuận hòa bình an.
Số này tuổi nhỏ gian nan,
Nhiều lần tai ách, nhờ Trời lại an.
Tánh nóng, dạ sáng, khôn ngoan,
Chiêm bao cũng trúng, nghi ngờ cũng y.
Thiếu niên lắm lúc gian nguy,
Tơ duyên tráo chác, e khi đổi dời.
Trở về tuổi lớn gặp thời,
Làm ăn thịnh vượng, môn đình an khương.
cung này cũng được thọ trường,
Số trên bảy chục (70), hồn về Tây phương.
Bốn người con cháu khóc thương,
Có nhạc trống, phách, hương lân ngậm ngùi.
Hòa thượng dẫn lộ độ vong,
Theo sổ sách chép, thác vào mùa Đông.
Tuổi Thìn và Tỵ làm nhà trở cửa cái về hướng Đông Nam.
CUNG LY:
Cung Ly, chính hướng Nam phương,
Ai nhằm cung ấy tánh người nóng thay.
Số này con trai khó nuôi,
Qua hạn bốn tuổi lớn lên nên người.
Số gái cũng lắm truân chuyên,
Nợ duyên lắm lúc long đong thảm sầu.
Căn trời số dịnh vậy thì,
Trai thay đổi vợ, gái thì lao đao.
Tuổi thơ chẳng đặng phỉ nguyền,
Tuổi già hưng thạnh, môn đình sum vinh.
Cho hay số phận tự Trời,
Gian nan lúc nhỏ, hòa vui cơn già.
Số này sống sáu mươi ba (63),
Ăn ở nhân đức sống ngoài bảy mươi (70).
Khi thác gặp tiết Đông thiên,
Cháu con đưa đón, cảm thông vô hồi.
Có cổ nhạc, có Sư tăng,
Tụng kinh phổ độ hồn về Tây phương.
Tuổi Ngọ làm nhà trở cửa cái về hướng chính Nam là hướng sinh hay Đông Nam cũng khá.
CUNG KHÔN:
Cung Khôn thuộc hướng Tây Nam,
Người sinh cung ấy lắm lần tân toan.
Số này tuổi nhỏ không yên,
Đôi ba lần khá, có rồi lại tan.
Số trai, vợ đôi, vợ ba,
Số gái, duyên phận vui chiều buồn mai.
Trung niên an phận hòa hài,
Cách nhà, xa xứ ra ngoài lập thân.
Sớm khuya lo liệu ân cần,
Chồng hòa vợ thuận, cháu con cũng hòa.
Số người hậu vận làm nên,
Vì trước đã có căn lành trồng sâu.
Đại số sáu mươi (60) mà thôi,
Có căn tu niệm sống ngoài bảy mươi (70).
Khi thác cháu con đủ đông,
Có Sư phổ độ, trống kèn lung tung.
Tuổi Mùi và Thân làm nhà trở cửa cái về hướng Tây Nam hay là Đông Nam cũng khá tốt.
CUNG ĐOÀI:
Cung Đoài thuộc Kim, chính Tây,
Người sinh cung ấy, số sau thanh nhàn.
Tuổi thơ lắm lúc tai nàn,
Nhờ có hồng phúc nạn nào cũng qua.
Đệ huynh nghịch ý ở xa,
Tha phương tự lập của tiền làm ra.
Vợ chồng lỡ dở nhiều phen, 
Khi tan, khi hiệp đôi lần mới nên.
Số này cũng khó nuôi con,
Chừng một hai đứa, dắt dìu tuổi cao.
Tuổi thọ được sáu mươi ba (63),
Có làm ân đức sống gnoài bảy mươi (70).
Khi cất đám được rỡ ràng,
Hòa thượng cổ nhạc, láng giềng đưa đông.
Cung Kim khắc Hỏa rõ ràng,
Thác vào mùa Hạ, Thiên tào số ghi.
Tuổi Dần làm nhà trở cửa cái về hướng chính Tây là hướng sinh hay là Tây Bắc cũng khá.
Ngũ Đế là: Thanh Đế, Huỳnh Đế, Bạch Đế, Xích Đế và Hắc Đế. Quí vị xem trở về "Bảng tính tuổi từ một đến 100 tuổi" ở phần trước, thì được biết là con của ông vua nào (năm nhà Đế). Rồi quí vị xem ở đây thì biết phải chịu ảnh hưởng thế nào?
Người có tánh hòa nhã, điềm đạm, giàu tưởng tượng, dung hòa, thích cảnh u nhàn tịch mịch, ham ngao du nơi non cao biển cả, trầm tư mặc tưởng một mình, hay cảm động trước cảnh hoang tàn mồ mả, rất cảm hứng những áng văn chương tuyệt tác, thích những tranh cổ tự ngàn xưa, yêu mến loài vật, thường dễ cảm và tôn kính những chỗ đền thờ, lăng miếu, ưa xem những loại sách về triết lý, luân lý, đạo giáo v.v...
Về hình dáng thì yểu điệu, gương mặt tròn, nước da trắng, môi son, bàn tay mềm mại, ngón tay mũi viết, mũi sọc dừa, đi đứng tề chĩnh, ăn nói nghiêm trang, mừng giận chẳng lộ ra ngoài mặt. Nếu là người đàn ông, phần nhiều thích những nghề như giáo sư, họa sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ; đa tình lắm nhưng lại bạc số.
Nếu là đàn bà thì rất giàu tình cảm, yêu mến gia đình, có tánh nhát, vẻ mặt sầu não, không có chí tranh đấu, thiếu kiên nhẫn, biết an phận thủ thường, sạch sẽ, chính chắn, khéo léo; không được siêng năng nhưng có trật tự; chung tình, hơi ghen ngầm, đông con cái.
Phần đông, con nhà Thanh Đế đều ưa tôn giáo, ham chuộng sự cúng quảy tổ tiên, thích cặm cụi tỉ mỉ, làm việc nội trợ, thêu thùa khéo, ham chưng diện cho con cái, biết trang trí trong nhà bông hoa tranh ảnh, không ưa những cảnh náo nhiệt; chẳng muốn chứng kiến những cảnh rùng rợn, lòng từ ái, liêm chính, ít gặp tai nạn.
Con nhà Thanh Đế nếu chịu ảnh hưởng xấu thì dễ bị sự cám dỗ sa ngã. Người đàn ông thì họ rất quỉ quái, lừa đảo, gian ngoa thường gạt gẫm rồi phụ bạc người đàn bà.
Chịu ảnh hưởng xấu, nghĩa là sinh trưởng trong gia đình hàn vi thiếu sự giáo dục, không đủ phương tiện để học hành, chẳng có nghề nghiệp tinh chuyên để lập thân v.v... và chẳng hạn lúc tuổi nhỏ gần gũi với đàn bà nên dễ bị hư thân mất nết, đó gọi là ảnh hưởng xấu.
Người mà chịu ảnh hưởng của ông Huỳnh Đế thì tánh tình hoạt động mãnh liệt, minh mẫn sáng láng, can đảm liều lĩnh, gan dạ phi thường, thường tranh đấu quyết liệt, ích kỷ, ham đắm lợi mê danh.
Người tướng dạng to lớn, sức vóc mạnh mẽ, bẩm thọ cương quyết, có tánh hung tợn. Đầu vuông, cổ tròn, tướng cao, ngón tay và bàn tay đều to lớn, giọng nói to, mạnh ăn, đi dứng lanh lẹ, tánh khẳng khái, ham chỉ huy chiến đấu, thích săn bắn, ưa võ nghệ, thích thể thao như chạy bộ, đua xe đạp v.v... Họ ít xúc động nhưng trung hậu tử tế, song lắm khi phẫn nộ đi đến ngang tàng. Phần đông họ không được nhã nhặn, nhưng thành thật; có mưu lược, những nghề mà thích nhất là: lái xe hơi, thầu khoán, kỹ nghệ, quân binh; tánh cương quyết, ít chịu thối bộ trước cảnh ngộ khó khăn, quyết làm thế nào cho đạt kỳ sở vọng mới thôi, khi phán đoán thì trầm tĩnh mà tìm chính lý; những ông thẩm phán, các vị quan chức thuộc ngạch hành chính đều chịu ảnh hưởng con nhà Huỳnh Đế cả. Họ rất nghiêm khắc và chẳng dung thứ những kẻ cường bạo, họ thường giữ tròn bản phận, chuộng chính lý, nhưng chẳng có tình cảm.
Người đàn bà mà chịu ảnh hưởng của ông Huỳnh Đế thì tướng cao mảnh khảnh, tính nết đoan trang, nói rõ ràng từng chi tiết, siêng năng, cần kiệm, từ ái, ít bạn bè, chẳng e dè vì họ quá thành thật. Ăn uống đạm bạc, không cầu kỳ, lãnh đạm với chồng con, trong thâm tâm thì lại keo sơn chung thủy; ít để ý thày lay đến việc người khác, ít ưa hát xướng, không ham du ngoạn. Đặc tánh của họ là giữ của, không tín ngưỡng nhưng chẳng đánh đổ ai, vì quá tiết kiệm mà thành ra có phần khuyết điểm cùng họ hàng thân thích, mất cảm tình với bạn bè. Tóm lại người đàn bà thuộc ông Huỳnh Đế là người tề gia giỏ, một người rất xứng đáng trong gia đình.
Người con nhà Huỳnh Đế phần đông có nước da màu mật ông ngâm ngâm đỏ. Đàn ông thì có râu nhiều, còn đàn bà thì tóc nhiều và cứng đen lánh, sinh đẻ cũng được dễ dàng, nuôi con rất giỏi, làm nghề chăn nuôi súc vật cũng đặng mau lớn không hao hụt.
Người có tâm linh, tánh khởi xướng khéo léo, ngoại giao giỏi, lanh lợi, tiên đoán, tiên kiến. Người con nhà Bạch Đế hay đa sầu,có khi lãnh đạm, khôn ngoan, đa mưu trí túc, cử chỉ khoan hòa, có đủ phương chước khuyến khích kẻ khác tự tính và kiên tâm cho đạt thành sở vọng; có đủ lý luận và quyến rũ bạn bè theo ý kiến của mình. Có lắm khi vì muốn đạt thành nguyện vọng, cho nên cũng dám làm đến chuyện phi pháp.
Người có hình tướng nhỏ, đều đặn, cân đối, gương mặt vừa vặn, da trắng hồng,đôi mắt sáng, môi đỏ, tiếng nói thanh tao lãnh lót, hình dáng dễ thương.
Người đàn bà con nhà Bạch Đế thường rất lãnh đạm về tình ái, thường hay lợi dụng tình cảm của kẻ khác mà làm cho ra tiền bạc, thường đứng trước quyền lợi của mình hơn là tình cảm, ưa nơi sang giàu quyền quí, tâm tánh lúc nào cũng muốn đào tạo cho thành một sự nghiệp to; bao giờ cũng muốn chiếm một địa vị lớn trong xã hội và luôn luôn muốn được phần ưu tiên trong mọi việc.
Nhờ sự thông minh và cố gắng hiển nhiên, nên họ đặng đắc kỳ sở nguyện một cách dễ dàng, cũng có khi phải chịu thất bại vì quá tham mà gồm nhiều việc trong một lần, nhưng sau rồi họ cũng đạt được nguyện vọng của họ. Tuy tánh chẳng hung bạo, song không được cảm tình của bạn bè và trong gia quyến.
Vì tánh quá cứng cỏi và hay kích bác người, hay ỷ lại nơi sáng kiến khôn ngoan, lời nói trôi chảy, cho nên cũng hay làm mất lòng người. Việc xã giao rất khéo, nếu thấy khi đã bị mất lòng người khác thì lại tìm cách khôn khéo hầu chuộc lại sự cảm tình cách dễ dàng.
Nếu gặp hoàn cảnh thuận tiện thì họ có thể làm những nghề như: kỹ nghệ, thầu khoán, trạng sư, bác sĩ hay nhà toán học v.v... Nếu gặp cơ hội tốt, thì họ rất quỷ quyệt, xảo trá, lường lận, gian hùng như giựt nợ, lường gái, thụt két hay là tay ăn chơi phóng đãng, không biết bao nhiêu là vợ; vì họ chẳng chung tình với ai cả. Phần nhiều những tật xấu ấy không phải là tiền định mà chính là tại hoàn cảnh gây nên, hoặc tại thiếu giáo dục của gia đình hay cũng có thể do nơi xã hội đào tạo.
Người có tánh tình ngay thẳng, uy nghiêm, thanh toán mọi việc một cách trôi chảy, trọng kỷ luật; ít nói nhưng không kiêu hãnh.
Người có thân hình hơi mập mạp, nước da sậm, đôi mắt sáng, tiếng nói lớn mà thanh tao, đầu cao, trán rộng và miệng cũng rộng, răng lớn, cằm vuông. Tánh người trầm tĩnh, thận trọng, dè dặt, có lòng tự ái, trường thọ, trong đời ít gặp tai nạn, làm giàu chậm nhưng vững bền, gặp cảnh khó đến mấy cũng đầy đủ cương nghị, chịu đựng nổi mọi sự cực nhọc, đầy lòng bác ái; ít nói nhưng hễ nói ra thì lời nói có đạo nghĩa và chân thật, lạc quan và rất tự tin nơi tài trí sẵn có của họ.
Con nhà Xích Đế rất có hiếu nghĩa, yêu mến vợ con, chẳng lang chạ nhưng nghiêm khắc với phái yếu.
Người đàn bà con nhà Xích Đế là một người vợ quí, mẹ hiền, một người nội trợ giỏi. Sinh đẻ dễ dàng, không hay đau ốm, nhiều hạnh kiểm tốt, chuộng thuần phong mỹ tục, chẳng hay xa hoa phung phí, tánh tiết kiệm thanh cần, không thích chưng diện son phấn; đầy đức hy sinh, chung tình, kiên nhẫn và trầm ngâm ít nói, làm việc nhiều, tha thiết yêu gia đình; dầu gặp hoàn cảnh éo le thế nào thì người cùng hưởng được hạnh phúc lúc tuổi già.
Người đàn bà Xích Đế rất tôn trọng Trời Phật, kính yêu cha mẹ, ông bà và người già cả v.v... Thích nuôi súc vật trong nhà, ưa buôn bán, ăn uống đạm bạc đơn giản, không hay than phiền; dầu gặp cảnh ngộ nào cũng điềm tĩnh; ít hay giúp đỡ kẻ khác, nhưng không bao giờ lường lận ai.
Có thể nói rằng con nhà Xích Đế là khuôn mẫu cho luân lý, tôn giáo, kỷ luật, công bình, liêm chính, nhẫn nại, an phận và điều hòa.
Người có tánh tình khô khan, nguội lạnh, giữ gìn, gắn bó, tích trữ của cải, nghiêm trang tề chỉnh, nhẫn nại mọi việc, đạm bạc đơn giản. Con nhà Hắc Đế gian nan cực khổ, có chí kiên gan, gánh chịu mọi sự cay đắng, có tánh cương quyết và chuyên cần, nhờ thế mà thành công trong mọi công việc làm, như những nhà thông thái, bác học, triết học, các tu sĩ của các tôn giáo, rất ưa những sách xưa, đồ cổ v.v... Có thể nói ràng con người Hắc Đế là một con người bảo thủ; những vị lương y đại tài, những nhà tu luyện khổ hạnh đều chịu ảnh hưởng của Hắc Đế.
Con nhà Hắc Đế nước da đen lánh, tay chân thô kịch, ít nói, ăn uống đạm bạc, không hay chưng diện, tướng cao, răng dài, tóc cứng, gọn gàng, mau mắn, chẳng có mỹ thuật lắm, nhưng được siêng năng, tần tiện, trung hậu, bền chí, giàu lòng hy sinh cho gia đình, dạy dỗ con cái đúng lễ. Những người đi tu đều chịu ảnh hưởng của Hắc Đế, nếu họ bị thất bại việc gì. Trong đời, ít gặp sự may mắn, vì quá thành thật mà thường bị người lường gạt.
Người đàn bà ưa nơi thanh tịnh, ưa cúng quảy thờ phượng ông bà Trời Phật. Còn đàn ông ở hoàn cảnh tầm thường thì phần đông ưa rượu chè, làm việc nặng nhọc, xã giao kém, ít nói nhưng cộc cằn, có khi đến thô bỉ; chẳng hay thày lay việc của người khác. Họ có thể trở nên hung ác, nếu gặp sự bức bách; lại cũng vì quá thành thật mà hóa ra lãnh đạm.
THUỘC SAO NÀO THỦ MẠNG, HÌNH DÁNG RA LÀM SAO
"Số bật cập Tướng, Tướng bất cập Số" là gì?
Trước muốn rành về số cũng nên coi để biết cho hết bài này, nó cũng giúp ích cho quí vị đoán định số mạng của mình và của người. Khi quí vị muốn xem cho một tuổi nào, thì trước hết bạn xem người ấy được bao nhiêu tuổi, tuổi gì, mạng gì, cung nào, sinh về tháng nào, ngày nào, mùa gì, ẩn hình của giống chim thú nào v.v... Có người ở chỗ Cung thì tốt, mà thuộc Mùa thì lại xấu; còn người ở nơi Tháng tốt, mà ở Cung lại xấu v.v... cho nên cân qua chế lại mười phần mà chiếm được năm phần thì khá rồi; từ mười mà chiếm được sáu hay bảy phần thì tốt lắm; còn ai mà được trọn mười phần thì là số đại phú quí chẳng sai. Đó là về bên Số. Còn về bên Tướng là khác, cho nên có câu: "Tướng bất cập số, Số bất cập Tướng" là vậy.
Người da trắng hồng nhuận, bàn tay đỏ ao, răng trắng môi son, tướng mảnh khảnh không cao quá; đôi mắt vừa không lộ, lông mày vừa không khít khoảng trên sóng mũi tóc may đen mước không cứng quá, trán vừa vặn cân đối không cao quá mà cũng không phải trán vồ, mũi thẳng hai bên tròn đều; khi nói lúc nào cũng hòa nhã, nụ cười có duyên và tươi tắn. Gò má vừa không quá cao, có lắm cô khi cười lại có núm đồng tiền trông rất đẹp, cổ trắng hơi cao có ba lằn chỉ đẹp; hai vai không xuôi quá và cũng không ngang chàn, ngực nở đầy đặn, hông nở, trôn nở, bàn chân trắng gót đỏ ao là quí tướng; tiếng thanhvà trong trẻo. Đi đứng nhẹ nhàng tề chỉnh, ăn uống khoan thai.
Đàn ông hay đàn bà thuộc Kim Tinh thủ mạng đều có tướng như trên.
Xét về tướng thuộc Kim Tinh thủ mạng, nếu là người đàn ông thì họ kén vợ lắm, còn đàn bà rất kén chồng. Không phải họ quá ham giàu sang, mà chỉ thích bậc văn nhân quân tử. Bởi có câu: "Đàn bà mảnh khảnh lưng ong. Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con".
Những người đàn bà Kim Tinh thủ mạng là một người khéo léo, chính chuyên, nếu họ là một ca sĩ thì giọng hát rất say mê. Còn người có học thức thì thích những loại sách nghiên cứu về thi văn, cùng là những loại sách về đạo giáo, triết lý v.v... Sự ăn mặc của họ rất thích hợp thời trang, trong nhà thường trang trí bông hoa đẹp. Chẳng những họ kỹ lưỡng cho họ mà thôi, trái lại còn đến kẻ ăn người ở cũng cho tha hồ chưng diện. Họ có tánh dễ dãi, tuy nghiêm trang mà không có tánh kiêu hãnh; lại có lòng nhân từ và bác ái.
Người Mộc Tinh chủ mạng thì tầm thường, dáng người đĩnh đạc, da hơi đỏ hồng, khổ mặt nở nang đều đặn, đầu tròn, đôi mắt tròn, lỗ mũi ngay và cao, chân mày thưa và đen, trán vừa vặn, gò má vừa xem, cằm hơi ngắn có duyên, răng nhỏ trắng trong, đôi môi vừa vặn. Người ít nói nhưng hễ nói ra thì rất thành thật, không khi nào nói chơi. Hai lỗ tai hơi cao, cổ vừa, vai hơi rộng, bàn chân dài, ngón tay dài, bàn tay hơi cứng, ngón tay cái đầu vuông. Tánh tình vui vẻ ngay thẳng, hơi giản dị song không quá cẩu thả.
Những vị có chức phận, cầm quyền cai trị rất mực công chính, đa tình nhưng không lang chạ. Nếu họ là nhà mỹ thuật thì họ có tài sáng tác mà trở nên giàu sang.
Người đàn bà Mộc Tinh chủ mạng mà có tướng tương đương như hình dáng của người đàn ông vừa nói trên, thì người ấy là một người đàn bà rất khó tánh, hay ghen ngầm và sâu sắc với chồng con và cùng người xung quanh họ, nhưng họ là một người giỏi về tề gia nội trợ và chính chuyên. Người không ưa nơi náo nhiệt, thường trầm ngâm, ưa nơi yên tịnh, họ thích chiêm ngưỡng nơi chốn giáo đường hay chùa chiền, lăng miếu. Họ rất tín ngưỡng Trời Phật, nhưng không quá mê tín, có thể nói họ là người chính tín.
Có lắm lúc cáu kỉnh, nhưng không có những giọng cay nghiệt, chẳng oán thù hay nghi oan. Họ ít khi dòm hành gia đạo của người khác, hơi cần kiệm nhưng không phải là người keo kiết, gian lận ai, có thể họ là người khuôn mẫu trong gia đình.
Xử sự với đời, họ biết thủ phận, không quá xa hoa, chẳng so sinh phân bì với ai mà cũng không bao giờ gây gổ ai. Không bao giờ họ hứa sai lời cùng ai, họ rất tự trọng cho nên có khi họ rất nghèo túng. Dầu gặp cảnh nào, họ cũng cam thủ phận để qua cơn khốn đốn. Có thể nói rằng người ấy rất giảu nghị lực.
Những người đàn bà như thế mới xứng đáng là một người vợ hiền, một người mẹ xứng đáng dạy dỗ đàn con sau này.
Người mà sao Thổ Tinh thủ mạng có nước da đen, cao và ốm, đàu vuông, cằm vuông, lỗ mũi cao, tay dài, ngón tay cũng dài, mặt vuông, lưỡng quyền có xương, tóc đen cứng, đôi mắt hơi sâu, tròng đen trắng phân minh có tinh thần, vầng trán cao, miệng rộng, răng to, tiếng nói lớn, đi đứng mạnh dạn.
Người Thổ Tinh thủ mạng tánh nết đứng đắn, gương mặt nghiêm trang có đượm vẻ buồn, ưa thích những việc của nhà canh nông hay là nhà chuyên môn những nghề nặng nhọc, thích cặm cụi làm công việc nặng nề. Họ thích nơi thanh tịnh u nhàn. Những nhà khai thác lâm sản, những vị tiều phu đều có Thổ Tinh thủ mạng cả. Tánh người rất tiết kiệm, ăn uống kham khổ, thích uống rượu, tín ngưỡng, những vịtu khổ hạnh thường cũng là vì sao Thổ Tinh thủ mạng.
Người có sao Thổ Tinh thủ mạng thì tánh tình cứng cỏi, tâm chí thanh cao, nếu là nhà cách mạng thì cứng rắn như cụ Phan Bội Châu. Có thể:
Phú quí bất năng dâm.
Bần cùng bất năng di.
Oai võ bất năng khuất.
Người đàn bà Thổ Tinh thủ mạng thì số phận cũng long đong, thường chịu cảnh góa bụa lúc tuổi già, con cái ít, thân tình lạt lẽo, lúc tuổi nhỏ thì vui chiều buồn mai. Thích buôn bán, nuôi các loài vật, ưa tu hành, ghét nơi rộn rịp như hát xướng, kịch trường.
Người đàn bà Thổ Tinh chiếu mạng cũng khá tốt, chính chuyên, trung hậu, trầm tĩnh, thanh cao, khoan dung, cẩn ngôn, cản hạnh, an phận và từ ái.
Người sao Thái Dương thủ mạng thì hình dáng khôi ngô, nước da trắng, cao mảnh khảnh, tiếng nói thanh bai, răng trắng, môi đỏ, ngón tay dài, miệng vừa, cằm vuông, đi đứng đĩnh đạc, giao thiệp khéo, ăn nói có văn chương, nhưng không kiểu cách. Tóc không nhiều, hai lỗ tai vừa, lòng bàn tay cũng không mềm quá và không cứng quá, đôi môi cân đối, cổ cao vừa vặn, râu ít, ngực đều đặn, vai hơi vuông.
Thái Dương thủ mạng thì thần khí sáng suốt, bình tĩnh, cang trực, không vội vàng, có chí tìm tòi những công việc khó khăn, có nghị lực chống chọi với sự khó khăn, có óc sáng tạo, có tài bắt chước, tiếng nói nhỏ mà vang và có oai. Có thể họ tự lập mà nên cơ nghiệp.
Người Thái Dương thủ mạng có sự may mắn lạ thường, gặp sự bất ngờ mà làm giàu. Họ tự kềm chế ít khi lạm quyền, nhưng phần đông họ hay cảm về nữ sắc, cho nên họ có thể rất dễ vị nợ tình vương vấn, đôi ba vợ không chừng.
Người đàn bà Thái Dương thủ mạng thì đoan trang lắm, đi đứng khoan thai, ăn nói tề chĩnh, giọng nói thanh tao, ít khi nóng nảy, ăn mặc đơn giản, thích ngao du sơn thủy hữu tình, thích văn chương, có óc mỹ thuật, ít ưa màu mè rực rỡ, đa cảm, hay tín ngưỡng, rất chung tình, có lòng bác ái, cũng ưa chuộng sự đẹp về hình thức nhưng ít hay chú trọng thái quá.
Người đàn bà Thái Dương chiếu mạng cũng đứng về người phúc đức, rất có tương lai sau này.
Người sao Thủy Tinh chiếu mạng thì vóc người nhỏ, đều đặn, có duyên dáng, ai thấy cũng ưa nhìn, giữ được vẻ trẻ trung mãi, sắc da hơi trắng hồng nhuận, tóc đen lánh, trán cao vừa, mí mắt sâu, đôi mắt cũng hơi sâu, miệng vừa vặn, cằm hơi nhỏ, đi đứng mau mắn, ăn nói hoạt bát. Tuy dáng người thấp mà cân đối.
Người như thế ăn nói khôn ngoan lịch thiệp, họ xã giao rất khéo, có nhiều mưu mão khôn ngoan. Những cô y tá, nữ điều dưỡng, cô đỡ phần đông đều có tướng như trên. Họ có những cử chỉ lanh lẹ, có thái độ tự nhiên làm cho người bệnh nhân vui vẻ, chẳng bao giờ thố lộ sự buồn ra ngoài. Họ ăn mặc rất đúng, sạch sẽ, kỹ lưỡng, biết trang trí trong nhà xem rất ngoạn mục, họ giao thiệp cùng bên nam giới chẳng e lệ rụt rè gì cả, họ thường pha trò rất duyên dáng khi nói chuyện, có lắm khi họ chế nhạo cũng khéo léo và rất có duyên nên chẳng ai giận.
Người đàn ông Thủy Tinh chiếu mạng thì họ cũng có tánh như trên, họ có nghề khéo léo, hay chìu ý khách hàng nếu họ là một người buôn bán, họ rất được cảm tình của nữ giới. Nếu họ là họa sĩ thì họ thích cảnh sơn thủy, núi non, sông biển. Tuy họ là đàn ông nhưng họ rất thích chưng diện, ưa bông hoa màu sắc, ưa xem hát, du lịch và thích trẻ con hay là nuôi súc vật. Họ ăn nói tuy nhỏ nhen nhưng lý luận rất đúng, khi đấu khẩu với ai thì họ có thần thái tự nhiên, họ thắng đối phương một cách khéo léo.
Người Hỏa Tinh thủ mạng thì tầm người cao lớn, tướng khỏe mạnh, gân guốc, da thịt rắn chắc, da đen hung hung, tay chân to lớn, lòng bàn tay cứng rắn và to, trán hơi vuông, đầu tròn trịa, tóc cứng, râu cứng, lông mày mọc ngang, môi hơi dầy, miệng rộng vừa, răng hơi to, cổ vừa không cao, cằm vuông, nở ngực, nở vai, hai bên hông nở nang, ăn uống mạnh dạn, lắm khi ghiền rượu, làm việc mạnh mẽ, chăm chỉ ít nói. Những nghề sở trường của họ như: canh nông, kỹ nghệ, ngành chuyên môn nặng nề, hay là quân binh võ tướng.
Người Hỏa Tinh chiếu mạng tuy không hay nói lặt vặt, chẳng hay can thiệp chuyện của ai, nhưng khi họ nổi giận thì cộc cằn lắm. Họ ít ưa nói giỡn chơi, rất thành thật dung hòa, chí thiết cùng gia đình, cưng vợ mến con. Họ chẳng hay xa xỉ, không để tâm chuyện thị phi, có chí kiên nhẫn những việc khổ nhọc.
Người dàn bà Hỏa Tinh chiếu mạng là người mạnh mẽ, ăn nói to tiếng nhưng thành thật, họ không chưng diện, người hơi thô khi mình nhìn họ, nhưng được cái đức tánh siêng năng, chân chính, trung hậu, họ có lòng tín ngưỡng lắm, hiếu thuận mẹ cha, trọn đạo xướng tùy, hòa thuận hương lân và tiết kiệm. Họ rất đông con và nuôi con rất dễ, ít khi đau ốm, họ nuôi thú vật cũng đặng. Họ ăn uống rất dễ và rất khỏe, họ kém mỹ thuật, không trật tự, nhưng người dễ tánh. Họi nói rất nhiều nhưng chẳng oán giận ai bao giờ, chẳng thích thày lay việc người khác.
COI CHO BIẾT NĂM SINH LÀ NĂM GÌ
(Năm Âm lịch và năm Tây lịch đối chiếu)
Bản kê tính sẵn trước sau 100 năm, kể từ năm 1958 cho đến năm 2058.
- 1958 tuổi Mậu Tuất, cung Tốn, mạng Bình Địa Mộc (cây trên đất bằng), xương con Chó, tướng tinh con Vượn.
- 1959 tuổi Kỷ Hợi, cung Cấn, mạng Bình Địa Mộc (cây trên đất bằng), xương con Heo, tướng tinh con Gấu.
- 1960 tuổi Canh Tý, cung Càn, mạng Bích Thượng Thổ (đất trên vách), xương con Chuột, tướng tinh con Dê.
- 1961 tuổi Tân Sửu, cung Đoài, mạng Bích Thượng Thổ (đất trên vách), xương con Trâu, tướng tinh con Đười Ươi.
- 1962 tuổi Nhâm Dần, cung Cấn, mạng Kim Bạch Kim (vàng trắng), xương con Cọp, tướng tinh con Ngựa.
- 1963 tuổi Quý Mão, cung Ly, mạng Kim Bạch Kim (vàng trắng), xương con Thỏ, tướng tinh con Hươu.
- 1964 tuổi Giáp Thìn, cung Tốn, mạng Phúc Đăng Hỏa (lửa đèn nhỏ), xương con Rồng, tướng tinh con Rắn.
- 1965 tuổi Ất Tỵ, cung Đoài, mạng Phúc Đăng Hỏa (lửa đèn nhỏ), xương con Rắn, tướng tinh con Trùn.
- 1966 tuổi Bính Ngọ, cung Càn, mạng Thiên Hà Thủy (nước sông Thiên Hà), xương con Ngựa, tướng tinh con Thuồng Luồng.
- 1967 tuổi Đinh Mùi, cung Đoài, mạng Thiên Hà Thủy (nước sông Thiên Hà), xương con Dê, tướng tinh con Rồng.
- 1968 tuổi Mậu Thân, cung Cấn, mạng Đại Trạch Thổ (đất nền nhà lớn), xương con Khỉ, tướng tinh con Lạc Đà.
- 1969 tuổi Kỷ Dậu, cung Ly, mạng Đại Trạch Thổ (đất nền nhà lớn), xương con Gà, tướng tinh con Thỏ.
- 1970 tuổi Canh Tuất, cung Khảm, mạng Xoa Kim Xuyến (xuyến bằng vàng), xương con Chó, tướng tinh con Cáo.
- 1971 tuổi Tân Hợi, cung Khôn, mạng Xoa Kim Xuyến (xuyến bằng vàng), xương con Heo, tướng tinh con Cọp.
- 1972 tuổi Nhâm Tý, cung Chấn, mạng Tang Đố Mộc (cây dâu), xương con Chuột, tướng tinh con Beo.
- 1973 tuổi Quý Sửu, cung Tốn, mạng Tang Đố Mộc (cây dâu), xương con Trâu, tướng tinh con Cua Biển.
- 1974 tuổi Giáp Dần, cung Cấn, mạng Đại Khê Thủy (nước ở khe lớn), xương con Cọp, tướng tinh con Trâu.
- 1975 tuổi Ất Mão, cung Ly, mạng Đại Khê Thủy (nước ở khe lớn), xương con Mèo, tướng tinh con Dơi.
- 1976 tuổi Bính Thìn, cung Khảm, mạng Sa Trung Thổ (đất trong cát), xương con Rồng, tướng tinh con Chuột.
- 1977 tuổi Đinh Tỵ, cung Khôn, mạng Sa Trung Thổ (đất trong cát), xương con Rắn, tướng tinh con Cú.
- 1978 tuổi Mậu Ngọ, cung Chấn, mạng Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời), xương con Ngựa, tướng tinh con Heo.
- 1979 tuổi Kỷ Mùi, cung Tốn, mạng Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời), xương con Dê, tướng tinh con Rắn.
- 1980 tuổi Canh Thân, cung Khôn, mạng Thạch Lựu Mộc (cây lựu đá), xương con Khỉ, tướng tinh con Chó Sói.
- 1981 tuổi Tân Dậu, cung Càn, mạng Thạch Lựu Mộc (cây lựu đá), xương con Gà, tướng tinh con Chó.
- 1982 tuổi Nhâm Tuất, cung Đoài, mạng Đại Hải Thủy (nước biển lớn), xương con Chó, tướng tinh con chim Trĩ.
- 1983 tuổi Quý Hợi, cung Cấn, mạng Đại Hải Thủy (nước biển lớn), xương con Heo, tướng tinh con Gà.
- 1984 tuổi Giáp Tý, cung Chấn, mạng Hải Trung Kim (vàng dưới biển), xương con Chuột, tướng tinh con Chó Sói.
- 1985 tuổi Ất Sửu, cung Tốn, Chấn, mạng Hải Trung Kim (vàng dưới biển), xương con Trâu, tướng tinh con Chó.
- 1986 tuổi Bính Dần, cung Khảm, mạng Lư Trung Hỏa (lửa trong lư), xương con Cọp, tướng tinh con chim Trĩ.
- 1987 tuổi Đinh Mão, cung Càn, mạng Lư Trung Hỏa (lửa trong lư), xương con Thỏ, tướng tinh con Gà.
- 1988 tuổi Mậu Thìn, cung Đoài, mạng Đại Lâm Mộc (cây lớn ở rừng), xương con Rồng, tướng tinh con Quạ.
- 1989 tuổi Kỷ Tỵ, cung Cấn, mạng Đại Lâm Mộc (cây lớn ở rừng), xương con Rắn, tướng tinh con Khỉ.
- 19990 tuổi Canh Ngọ, cung Ly, mạng Lộ Bàng Thổ (đất đường đi), xương con Ngựa, tướng tinh con Vượn.
- 1991 tuổi Tân Mùi, cung Khảm, mạng Lộ Bàng Thổ (đất đường đi), xương con Dê, tướng tinh con Gấu.
- 1992 tuổi Nhâm Thân, cung Khôn, mạng Kiếm Phong Kim (kiếm bằng vàng), xương con Khỉ, tướng tinh con Dê.
- 1993 tuổi Quý Dậu, cung Chấn, mạng Kiếm Phong Kim (kiếm bằng vàng), xương con Gà, tướng tinh con Đười Ươi.
- 1994 tuổi Giáp Tuất, cung Càn, mạng Sơn Đầu Hỏa (lửa trên núi), xương con Chó, tướng tinh con Ngựa.
- 1995 tuổi Ất Hợi, cung Đoài, mạng Sơn Đầu Hỏa (lửa trên núi), xương con Heo, tướng tinh con Hươu.
- 1996 tuổi Bính Tý, cung Cấn, mạng Giang Hạ Thủy (nước mù sương), xương con Chuột, tướng tinh con Rắn.
- 1997 tuổi Đinh Sửu, cung Ly, mạng Giang Hạ Thủy (nước mù sương), xương con Trâu, tướng tinh con Trùn.
- 1998 tuổi Mậu Dần, cung Khảm, mạng Thành Đầu Thổ (đất trên thành), xương con Cọp, tướng tinh con Thuồng Luồng.
- 1999 tuổi Kỷ Mão, cung Khôn, mạng Thành Đầu Thổ (đất trên thành), xương con Thỏ, tướng tinh con Rồng.
- 2000 tuổi Canh Thìn, cung Chấn, mạng Bạch Lạp Kim (chân đèn bằng vàng), xương con Rồng, tướng tinh con Rồng.
- 2001 tuổi Tân Tỵ, cung Tốn, mạng Bạch Lạp Kim (chân đèn bằng vàng), xương con Rắn, tướng tinh con Thỏ.
- 2002 tuổi Nhâm Ngọ, cung Ly, mạng Dương Liễu Mộc (cây dương liễu), xương con Ngựa, tướng tinh con Cáo.
- 2003 tuổi Quý Mùi, cung Càn, mạng Dương Liễu Mộc (cây dương liễu), xương con Dê, tướng tinh con Cọp.
- 2004 tuổi Giáp Thân, cung Khôn, mạng Tuyền Trung Thủy (nước trong giếng), xương con Khỉ, tướng tinh con Beo.
- 2005 tuổi Ất Dậu, cung Chấn, mạng Tuyền Trung Thủy (nước trong giếng), xương con Gà, tướng tinh con Cua.
- 2006 tuổi Bính Tuất, cung Tốn, mạng Ốc Thượng Thổ (đất ổ tò vò), xương con Chó, tướng tinh con Trâu.
- 2007 tuổi Đinh Hợi, cung Cấn, mạng Ốc Thượng Thổ (đất ổ tò vò), xương con Heo, tướng tinh con Dơi.
- 2008 tuổi Mậu Tý, cung Càn, mạng Thích Lịch Hỏa (lửa sấm sét), xương con Chuột, tướng tinh con Chó Sói.
- 2009 tuổi Kỷ Sửu, cung Đoài, mạng Thích Lịch Hỏa (lửa sấm sét), xương con Trâu, tướng tinh con Cú.
- 2010 tuổi Canh Dần, cung Cấn, mạng Tòng Bá Mộc (cây tòng, cây bá), xương con Cọp, tướng tinh con Heo.
- 2011 tuổi Tân Mão, cung Ly, mạng Tòng Bá Mộc (cây tòng, cây bá), xương con Thỏ, tướng tinh con Rái.
- 2012 tuổi Nhâm Thìn, cung Khảm, mạng Trường Lưu Thủy (nước chảy dài), xương con Rồng, tướng tinh con Chó Sói.
- 2013 tuổi Quý Tỵ, cung Khôn, mạng Trường Lưu Thủy (nước chảy dài), xương con Rắn, tướng tinh con Chó.
- 2014 tuổi Giáp Ngọ, cung Ly, mạng Sa Trung Kim (vàng trong cát), xương con Ngựa, tướng tinh con chim Trĩ.
- 2015 tuổi Ất Mùi, cung Khảm, mạng Sa Trung Kim (vàng trong cát), xương con Dê, tướng tinh con Gà.
- 2016 tuổi Bính Thân, cung Khôn, mạng Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới núi), xương con Khỉ, tướng tinh con Quạ.
- 2017 tuổi Đinh Dậu, cung Chấn, mạng Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới núi), xương con Gà, tướng tinh con Khỉ.
- 2018 tuổi Mậu Tuất, cung Tốn, mạng Bình Địa Mộc (cây trên đất bằng), xương con Chó, tướng tinh con Vượn.
- 2019 tuổi Kỷ Hợi, cung Cấn, mạng Bình Địa Mộc (cây trên đất bằng), xương con Heo, tướng tinh con Gấu.
- 2020 tuổi Canh Tý, cung Càn, mạng Bích Thượng Thổ (đất trên vách), xương con Chuột, tướng tinh con Dê.
- 2021 tuổi Tân Sửu, cung Đoài,mạng Bích Thượng Thổ (đất trên vách), xương con Trâu, tướng tinh con Đười Ươi.
- 2022 tuổi Nhâm Dần, cung Cấn, mạng Kim Bạch Kim (vàng trắng), xương con Cọp, tướng tinh con Ngựa.
- 2023 tuổi Quý Mão, cung Ly, mạng Kim Bạch Kim (vàng trắng), xương con Thỏ, tướng tinh con Hươu.
- 2024 tuổi Giáp Thìn, cung Tốn, mạng Phúc Đăng Hỏa (lửa đèn nhỏ), xương con Rồng, tướng tinh con Rắn.
- 2025 tuổi Ất Tỵ, cung Tốn, mạng Phúc Đăng Hỏa (lửa đèn nhỏ), xương con Rắn, tướng tinh con Trùn.
- 2026 tuổi Bính Ngọ, cung Càn, mạng Thiên Hà Thủy (nước sông Thiên hà), xương con Ngựa, tướng tinh con Thuồng Luồng.
- 2027 tuổi Đinh Mùi, cung Đoài, mạng Thiên Hà Thủy (nước sông Thiên hà), xương con Dê, tướng tinh con Rồng.
- 2028 tuổi Mậu Thân, cung Cấn, mạng Đại Trạch Thổ (đất nền nhà lớn), xương con Khỉ, tướng tinh con Lạc Đà.
- 2029 tuổi Kỷ Dậu, cung Ly, mạng Đại Trạch Thổ (đất nền nhà lớn), xương con Gà, tướng tinh con Thỏ.
- 2030 tuổi Canh Tuất, cung Khảm, mạng Xoa Xuyến Kim (xuyến bằng vàng), xương con Chó, tướng tinh con Cáo.
- 2031 tuổi Tân Hợi, cung Khôn, mạng Xoa Xuyến Kim (xuyến bằng vàng), xương con Heo, tướng tinh con Cọp.
- 2032 tuổi Nhâm Tý, cung Chấn, mạng Tang Đố Mộc (cây dâu), xương con Chuột, tướng tinh con Beo.
- 2033 tuổi Quý Sửu, cung Tốn, mạng Tang Đố Mộc (cây dâu), xương con Trâu, tướng tinh con Cua Biển.
- 2034 tuổi Giáp Dần, cung Cấn, mạng Đại Khê Thủy (nước ở khe lớn), xương con Cọp, tướng tinh con Trâu.
- 2035 tuổi Ất Mão, cung Ly, mạng Đại Khê Thủy (nước ở khe lớn), xương con Mèo, tướng tinh con Dơi.
- 2036 tuổi Bính Thìn, cung Khảm , mạng Sa Trung Thổ (đất trong cát), xương con Rồng , tướng tinh con Chuột.
- 2037 tuổi Đinh Tỵ, cung Khôn, mạng Sa Trung Thổ (đất trong cát), xương con Rắn, tướng tinh con Cú.
- 2038 tuổi Mậu Ngọ, cung Chấn, mạng Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời), xương con Ngựa , tướng tinh con Heo.
- 2039 tuổi Kỷ Mùi, cung Tốn, mạng Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời), xương con Dê, tướng tinh con 
rái.
- 2040 tuổi Canh Thân, cung Khôn, mạng Thạch Lựu Mộc (cây lựu đá), xương con Khỉ, tướng tinh con Chó Sói.
- 2041 tuổi Tân Dậu, cung Càn, mạng Thạch Lựu Mộc (cây lựu đá), xương con Gà, tướng tinh con Chó.
- 2042 tuổi Nhâm Tuất, cung Đoài, mạng Đại Hải Thủy (nước biển lớn), xương con Chó, tướng tinh con chim Trĩ.
- 2043 tuổi Quý Hợi, cung Cấn, mạng Đại Hải Thủy (nước biển lớn), xương con Heo, tướng tinh con Gà.
- 2044 tuổi Giáp Tý, cung Chấn, mạng Hải Trung Kim (vàng dưới biển), xương con Chuột, tướng tinh con Chó Sói.
- 2045 tuổi Ất Sửu, cung Tốn, mạng Hải Trung Kim (vàng dưới biển), xương con Trâu, tướng tinh con Chó.
- 2046 tuổi Bính Dần, cung Khảm, mạng Lư Trung Hỏa (lửa trong lư), xương con Cọp, tướng tinh con chim Trĩ.
- 2047 tuổi Đinh Mão, cung Càn, mạng Lư Trung Hỏa (lửa trong lư), xương con Thỏ, tướng tinh con Gà.
- 2048 tuổi Mậu Thìn, cung Đoài, mạng Đại Lâm Mộc (cây lớn ở rừng), xương con Rồng, tướng tinh con Quạ.
- 2049 tuổi Kỷ Tỵ, cung Cấn, mạng Đại Lâm Mộc (cây lớn ở rừng), xương con Rắn, tướng tinh con Khỉ.
- 2050 tuổi Canh Ngọ, cung Ly, mạng Lộ Bàng Thổ (đất đường đi), xương con Ngựa, tướng tinh con Vượn.
- 2051 tuổi Tân Mùi, cung Khảm, mạng Lộ Bàng Thổ (đất đường đi), xương con Dê, tướng tinh con Gấu.
- 2052 tuổi Nhâm Thân, cung Khôn, mạng Kiếm Phong Kim (kiếm bằng vàng), xương con Khỉ, tướng tinh con Dê.
- 2053 tuổi Quý Dậu, cung Chấn, mạng Kiếm Phong Kim (kiếm bằng vàng), xương con Gà, tướng tinh con Đười Ươi.
- 2054 tuổi Giáp Tuất, cung Càn, mạng Sơn Đầu Hỏa (lửa trên núi), xương con Chó, tướng tinh con Ngựa.
- 2055 tuổi Ất Hợi, cung Đoài, mạng Sơn Đầu Hỏa (lửa trên núi), xương con Heo, tướng tinh con Hươu.
- 2056 tuổi Bính Tý, cung Cấn, mạng Giáng Hạ Thủy (nước mù sương), xương con Chuột, tướng tinh con Rắn.
- 2057 tuổi Đinh Sửu, cung Ly, Giáng Hạ Thủy (nước mù sương), xương con Trâu, tướng tinh con Trùn.
Bài dưới đây coi cho trẻ mới sinh đặng mấy lượng mấy chỉ và biết đặng sang hèn thế nào.
Còn ngày giờ thì do nơi lịch quốc ngữ của Tam Tông Miếu. Bởi thứ lịch này cũng giống như lịch chữ Tàu, vì nhà làm lịch nói trên dịch đúng theo lịch Tàu đặng cho người Việt Nam chúng ta dễ hiểu.
Bảng Tính số năm sinh tốt, xấu dưới đây rất quan trọng hơn hết trong số của Tam Thế Diễn Cầm và số Tử Vi.
Bảng Tính số năm sinh tốt, xấu sau đây chẳng riêng để xem cho trẻ con mà thôi, lại còn để xem cho người lớn. Nếu quí vị nhớ đủ năm, tháng, ngày, giờ sinh thì xem đây cũng đúng vậy.
(Nam nữ coi chung)
- Tuổi Giáp Tý: 1 lượng 2 chỉ; Bính Tý: 1 lượng 6 chỉ; Mậu Tý: 1 lượng 5 chỉ; Canh Tý: 7 chỉ; Nhâm Tý: 5 chỉ.
- Tuổi Ất Sửu: 9 chỉ; Đinh Sửu: 8 chỉ; Kỷ Sửu: 8 chỉ; Tân Sửu: 7 chỉ; Quý Sửu: 5 chỉ. 
- Tuổi Bính Dần: 6 chỉ; Mậu Dần: 8 chỉ; Canh Dần: 9 chỉ; Nhâm Dần: 9 chỉ; Giáp Dần: 1 lượng 2 chỉ.
- Tuổi Đinh Mão: 7 chỉ; Kỷ Mão: 1 lượng 9 chỉ; Tân Mão: 1 lượng 2 chỉ; Quý Mão: 1 lượng 2 chỉ; Ất Mão: 8 chỉ.
- Tuổi Mậu Thìn: 1 lượng 2 chỉ; Canh Thìn: 1 lượng 2 chỉ; Nhâm Thìn: 1 lượng' Giáp Thìn: 8 chỉ; Bính Thìn: 8 chỉ.
- Tuổi Kỷ Tỵ: 5 chỉ; Tân Tỵ: 6 chỉ; Quý Tỵ: 7 chỉ; Ất Tỵ: 7 chỉ; Đinh Tỵ: 6 chỉ,
- Tuổi Canh Ngọ: 9 chỉ; Nhâm Ngọ: 8 chỉ; Giáp Ngọ: 1 lượng 5 chỉ; Bính Ngọ: 1 lượng 3 chỉ; Mậu Ngọ: 1 lượng 9 chỉ.
- Tuổi Tân mùi: 8 chỉ; Quý Mùi: 7 chỉ; Ất Mùi: 6 chỉ; Đinh Mùi: 5 chỉ; Kỷ Mùi: 6 chỉ.
- Tuổi Nhâm Thân: 7 chỉ; Giáp Thân: 5 chỉ; Bính Thân: 5 chỉ; Mậu Thân: 1 lượng 4 chỉ; Canh Thân: 8 chỉ.
- Tuổi Quý Dậu: 7 chỉ; Ất Dậu: 1 lượng 5 chỉ; Đinh Dậu: 1 lượng 4 chỉ; Kỷ Dậu: 5 chỉ; Tân Dậu: 1 lượng 6 chỉ.
- Tuổi Giáp Tuất: 1 lượng 5 chỉ; Bính Tuất 6 chỉ; Mậu Tuất 1 lượng 4 chỉ; Canh Tuất: 9 chỉ; Nhâm Tuất: 1 lượng.
- Tuổi Ất Hợi: 9 chỉ; Đinh Hợi chỉ: 1 lượng 6 chỉ; Kỷ Hợi: 9 chỉ; Tân Hợi: 1 lượng 7 chỉ: Quý Hợi: 6 chỉ.
Tháng giêng: 6 chỉ; tháng hai: 7 chỉ; tháng ba: 1 lượng 8 chỉ: tháng tư: 9 chỉ: tháng năm: 5 chỉ; tháng sáu: 1 lượng 6 chỉ; tháng bảy: 9 chỉ; tháng tám 1 lượng 5 chỉ; tháng chín: 1 lượng 8 chỉ; tháng mười: 8 chỉ; tháng mười một: 9 chỉ; tháng chạp: 5 chỉ.
Nếu sinh về tháng nhuần thì tính như vầy: hễ sinh vào khoảng nửa trên tháng thì tính về tháng trước, còn khoảng nửa dưới tháng thì tinh về tháng sau.
Mùng một: 5 chỉ, mùng hai: 10 lượng, mùng ba: 8 chỉ, mùng bốn: 1 lượng 5 chỉ, mùng năm: 1 lượng 6 chỉ, mùng sáu: 1 lượng 5 chỉ, mùng bảy: 8 chỉ, mùng tám: 1 lượng 6 chỉ, mùng chín: 8 chỉ, mùng mười: 1 lượng 6chỉ, mười một: 9 chỉ, mười hai: 1 lượng 7 chỉ, mười ba: 8 chỉ, mười bốn: 1 lượng 7 chỉ, mười lăm: 1 lượng, mười sáu: 8 chỉ, mười bảy: 9 chỉ, mười tám: 1 lượng 8 chỉ, mười chín: 5 chỉ, hai mươi: 1 lượng 5 chỉ, hăm mốt: 1 lượng, hăm hai: 9 chỉ, hăm ba: 8 chỉ, hăm bốn: 9 chỉ, hăm lăm: 1 lượng 5 chỉ, hăm sáu: 1 lượng 8 chỉ, hăm bảy: 7 chỉ, hăm tám: 8 chỉ, hăm chín: 1 lượng 6 chỉ, ba mươi: 6 chỉ.
Giờ Tý: 1 lượng 6 chỉ, Sửu: 6 chỉ, Dần: 7 chỉ, Mão: 1 lượng. Thìn: 6 chỉ, Tỵ: 1 lượng 6 chỉ, Ngọ: 1 lượng, Mùi: 8 chỉ, Thân: 8 chỉ, Dậu: 9 chỉ, Tuất: 9 chỉ, Hợi: 6 chỉ.
PHÉP TÍNH NHƯ DƯỚI ĐÂY:
- Sinh năm Giáp Tý...: 1 lượng 2 chỉ.
- Sinh tháng giêng....: 0 lượng 6 chỉ.
- Ngày mùng Môt.......: 0 lượng 5 chỉ.
- Sinh giờ Tý............: 1 lượng 6 chỉ.
- Cộng là..................: 3 lượng 9 chỉ.
Đoạn xem lời giải lập thành dưới đây, tìm đến lời giải chỉ số 3 lượng 9 chỉ thì sẽ được hiểu vận mạng trong một đời nên hư, tốt xấu v.v...
2 lượng 2 chỉ
Số này thân hàn cốt lạnh, khổ sở linh đinh, quanh năm lo kiếm ăn độ nhật mà còn thiếu thốn, rồicó thể trở thành ăn mày vì số mạng vậy.
Số này hễ mưu toan làm việc chi cũng khó nên được. Chẳng trông cậy nên anh em họ hàng, đành chịu tha phương cầu thực.
Số này suy ra không có phúc lộc gia đình, khó gầy nên sự nghiệp, không nơi nương cậy họ hàng cốt nhục, phải lưu lạc tha phương cầu thực tới già mà thôi.
Suy ra số này tổ nghiệp suy vi, ít có phần gầy dựng nên gia đình được, họ hàng cốt nhục thì như than với giá, một đời khổ sở, chỉ tự mình tìm sự sống mà thôi.
Số này trọn đời khốn khổ, một mình mưu tính công việc làm ăn luôn luôn nhưng chẳng thành. Nên lìa xa quê cha đất tổ mới hầu được đủ ăn và may ra lúc già được thanh nhàn.
Số này một đời làm công việc ít có được người khác mưu toan giúp đỡ, khó nhờ cậy phúc dức của tổ tông làm chủ trương cho. Chỉ tự lực một mình làm ăn, từ bé đến lớn chẳng có cái gì hay cả.
Số này làm ăn lộn xộn rối ren như bòng bong, về sản nghiệp của tổ tông thì như giấc mộng. Nếu chẳng làm con nuôi người ta hay là không đổi họ thì cũng phải dời đổi gia cư tới đôi ba lần.
Số nầy năm xưa thì lẩn quẩn chưa hề được hanh thông, dầu có công danh cũng trễ muộn, phải tới ngoài bốn mươi mới có thể đặng an nhàn, nhưng phải dời đổi nhà cửa hay đổi họ mới hay.
Số này lao lực phong trần, trong đời gặp lắm cảnh lầm than. Dầu có siêng năng hà tiện, tới tuổi gia chỉ đỡ ưu sầu chút đỉnh thôi.
Số này cũng vất vả lao đao ví sinh kế, khó nhờ sự nghiệp của tổ tông mà nên nhà cửa. Từ nửa đời người trở lên mới đặng đủ ăn đủ mặc.
Số này năm xưa gặp vận rủi, khó mưu đặng công việc gì. Về sau mới có tài lợi như nước chảy lần tới. Tử nửa đời người trở lên thì sự ăm mặc đặng no ấm, lúc ấy công danh lợi lộc sẽ hanh thông.
Số này lúc ban sơ làm ăn công việc chi cũng khó thành, mưu tính trăm đường chỉ uổng công thôi. Tử nửa đời người sắp lên mới gặp vận hay sẽ tới như dòng nước chảy lại, sau này tấn lợi tấn phát đặng nhiều.
Số này có phúc đức tăng đạo, phải xa quê hương cha mẹ mà xuất gia nương cửa Phật, hằng ngày tụng niệm thì mới đặng y lộc viên mãn.
Số này phúc lượng sinh bình chẳng đặng chu toàn, chẳng hưởng phần căn cơ của tổ nghiệp truyền lại. Còn sự sinh nhai phải chờ khi vận tới rồi mới đặng no đủ hơn xưa.
Số này một đời chẳng cần lao lực chi lắm, một tay gầy dựng nên gia nghiệp, cái phúc chẳng phải vừa, vì sớm có ngôi phúc tinh thường chiếu mạng, mặc dù cho làm qua trăm bề đều thành đạt.
Số này làm chẳng đặng thành công, anh em ít giúp sức, chỉ một thân cô lập. Tuy rằng cũng có tổ nghiệp chút dỉnh, nhưng lúc lại thì rành rành đó, mà lúc đi thì chẳng biết hết bao giờ.
Số này cốt cách rất thanh tao, sớm đặng thi đổ, tên họ ghi trên bảng vàng. Từ năm 36 tuổi, sẽ đặng phú quí vinh hoa.
Số này trọn đời vận mạng chẳng thông đạt, làm việc thành rồi hư. Khổ tâm kiệt lực dựng nên gia kế, tới sau này cũng như giấc mộng.
Số này phúc đức đặng lâu dài, nhưng xưa phải chịu qua nhiều nỗi phong ba vất vả. Sau này đặng hưởng an nhàn phú quí.
Số này là người tài ba lỗi lạc, công chuyện trước sau chẳng đồng nhau; từ nửa đời sắp lên lại có phúc tiêu dao, chứ chẳng như xưa kia vận chưa dạt.
Số này sẽ đặng nhiều thỏa nguyện. Từ nửa đời người thì vận mạng đặng nên, lúc ấy tài lợi công danh thảy đều tấn phát.
Số này là người tính rất thông minh, làm việc lỗi lạc hiên ngang gần người sang quí. Một đời phúc lộc tự trời định sẵn, chẳng cần phải lao lực mà tự nhiên đặng hanh thông.
Phàm sự chi cũng bởi trời đem lại, chẳng cần cầu làm chi cho mệt, phúc lộc về sau sẽ đặng hơn nhiều lúc khi xưa. Tuy rằng lúc trẻ cung Tài Bạch khó được như ý, nhưng tới tuổi già đặng an nhàn.
Số này phần công danh lợi lộc trước phải tân khổ, sau này cũng phải bôn ba; số hiếm hoi con cái vì khó nuôi; anh em cốt nhục cũng phù trợ giúp sức.
Số này đi đâu cũng đều đặng hanh thông, nhất là đổi họ dời nhà lại càng thạnh vượng. Ăn mặc đầy đủ tự số trời định sẵn. Từ nửa đời người cho tới lúc già đồng một mực trung bình.
Số này tính ra vượng lúc tuổi già, vợ con phú quí, vì nguyên có cái phúc sẵn như nước chảy lại.
Số này tuổi trẻ cũng như lúc lớn tuổi chẳng đặng hưng vượng. Anh em họ hàng đều không đặng nhờ cậy, giúp sức. Tới lúc già rồi mới đặng đôi phần an khương.
Số này suy ra có hậu phúc lắm, tự tay gầy dựng nên sự nghiệp vẻ vang gia đình. Người sang đều kính trọng. Một đời sung sướng.
Số này hằng ngày lao lực về đàng công danh tài lợi. Lúc nửa đời cũng có nhiều phen gặp phúc lộc; tới lúc già có ngôi Tài tinh chiếu mạng sẽ đặng an nhàn.
Số này một đời vinh hoa, mọi việc thảy đều tấn phát, chẳng cần lao lực tự nhiên hanh thông. Anh em, chú cháu đều đặng như ý, gia nghiệp và phúc lộc đặng đầy đủ.
Số này trọn đời hanh thông, việc gì cũng hay, chẳng cần nhọc lòng mà tự nhiên an ổn. Họ hàng cốt nhục thảy đều giúp sức, sự nghiệp hiển đạt.
Số này xem ra khí lượng chân thật, nghiệp mà đặng phát đạt cũng nhờ ở trong đó. Phúc lộc một đời có số định sẵn vinh hoa phú quí.
Số này là người có tính trung hậu và thanh cao, học hành minh mẫn, ăn mặc phong túc, tự nhiên an ổn, chính là người có phúc trên đời.
Số này lúc trẻ hằng bôn ba trên đàng danh lợi, nhưng uổng sức phí công mà thôi. Ngày kia phúc lộc sẽ tới như nước chảy lại, rồi tự nhiên phú quí vinh hiển.
Số này suy ra là người lễ nghĩa thông thái, một đời phúc lộc, trải đủ mùi chua cay, nguồn tài lợi cuồn cuộn, an ổn và phong hậu.
Số này phúc lộc dẫy đầy, mọi sự hanh thông, vinh hiển mẹ cha, oai vọng chấn dương, người đều kính trọng, riêng chiếm bầu xuân.
Số này là số bảng vàng áo gấm, quan cả khoa cao, phúc lộc một đời tự nhiên đem lại, phúc thọ đầy đủ, danh lợi kiêm toàn.
Suy ra số này là người diệu xảo không có thanh cốt, chẳng hẳn tài cao hộc rộng có phận khoa bảng, có mạng làm quan sang.
Số này tên đậu bảng vàng, lập nên công lớn, vinh quang tông tổ, điền sản phong túc, y lộc dư dã.
Số này tư chất thông minh, học hỏi rộng rãi, tự nhiên vinh diệu, tên đậu bảng vàng. Dù chẳng được quan sang, chắc cũng là một nhà phú hộ.
Số này phúc lộc vô cùng, học giỏi làm nên, vinh hiển mẹ cha đai vàng áo gấm, phú quí vinh hoa mọi đường đầy đủ.
Số này là số đậu khoa cao, làm quan lớn, giàu sang cực phẩm, toại danh thiên hạ, phúc lộc phi thường, gia đình vinh hiển.
Số này phú quí vinh hoa, ít ai bì kịp, oai quyền lộc vị, không kẻ sánh bằng. Áo tía đai vàng, ngôi cao chung đỉnh, trọn đời hạnh phúc.
Số này suy ra phúc lộc chẳng nhỏ, tài cao giúp nước, công cả yên dân, chức trọng trào đình, giàu sang tột bực, vang danh thiên hạ.
Số này phú quí định sẵn tự trời, phúc lộc hơn thiên hạ, quan cao quyền trọng, châu báu đầy nhà, ấm phong thê tử.
Số này sinh ra tự nhiên có phúc đức, điền viên gia nghiệp thật hưng long, trọn đời phú quí vinh hoa, muôn việc hanh thông hoàn hảo.
Số này giàu sang tự trời ban, khỏi phải khó nhọc, gia tư có muôn vàng, nhưng mười năm sau chẳng còn như hồi trước, căn cơ tổ nghiệp trôi đi như thuyền trên mặt nước sóng bão.
Số này là một vì sao y lộc ở nhân gian, một thân phú quí, mọi người đều kính nể. Tóm lại là phúc lộc do tự trời định, an hưởng vinh hoa trọn đời.
Số này suy ra phúc chẳng nhỏ không cần phải sầu lo làm chi cho mệt nhọc, vì trời đã định sẵn y lộc phong dinh, một đời vinh hiển giàu sang.
Số này sinh ra rất khác với người thường, công hầu khanh tướng đều đặng hoàn hảo, một đời tự nhiên có phúc tiêu diêu khoái lạc, cực phẩm hưng long.

24 GIỜ ĐỒNG HỒ SO VỚI 12 GIỜ ĐỊA CHI
* BAN NGÀY: 
- 06 giờ sáng là giữa giờ Mão.
- 07 giờ sáng là cuối giờ Mão (đầu giờ Thìn).
- 08 giờ sáng là giữa giờ Thìn.
- 09 giờ sáng là cuối giờ Thìn (đầu giờ Tỵ).
- 10 giờ sáng là giữa giờ Tỵ.
- 11 giờ sáng là cuối giờ Tỵ (đầu giờ Ngọ).
- 12 giờ sáng là giữa giờ Ngọ.
- 01 giờ chiều là cuối giờ Ngọ (đầu giờ Mùi).
- 02 giờ chiều là giữa giờ Mùi.
- 03 giờ chiều là cuối giờ Mùi (đầu giờ Thân).
- 04 giờ chiều là giữa giờ Thân.
- 05 giờ chiều là cuối giờ Thân (đầu giờ Dậu).
* BAN ĐÊM: 
- 06 giờ tối là giữa giờ Dậu.
- 07 giờ tối là cuối giờ Dậu (đầu giờ Tuất).
- 08 giờ tối là giữa giờ Tuất.
- 09 giờ tối là cuối giờ Tuất (đầu giờ Hợi).
- 10 giờ tối là giữa giờ Hợi.
- 11 giờ tối là cuối giờ Hợi (đầu giờ Tý).
- 12 giờ khuya là giữa giờ Tý.
- 01 giờ mai là cuối giờ Tý (đầu giờ Sửu).
- 02 giờ mai là giữa giờ Sửu.
- 03 giờ mai là cuối giờ Sửu (đầu giờ Dần).
- 04 giờ mai là gữa giờ Dần.
- 05 giờ sáng là cuối giờ Dần (đầu giờ Mão).

(Nam nữ coi chung)
Đầu giờ Tý
Đầu giờ khắc mẹ còn cha,
Tính nóng vội vã cùng là khắc thê.
Hào con không hạp nam nhi,
Họ hàng xung khắc, tha hương bồng bềnh.
Giữa giờ Tý
Giữa giờ, cha mẹ song toàn,
Tính tình vui vẻ thanh nhàn chung thân.
Anh em gia đạo sung vinh,
Tài hoa lại gặp má hồng yêu đương.
Cuối giờ Tý
Cuối giờ mồ côi mẹ cha,
Anh em thì ít, ở cùng người dưng,
Phu thế khắc đến hai lần,
Nổi trôi số phận gian nan nhiều bề.
Đầu giờ Sửu
Đầu giờ, cha mẹ song toàn,
Anh em đắc lực, họ hàng đông vui.
Hai mươi tuổi đã nên người,
Kiêm toàn văn võ nên trang anh tài.
Giữa giờ Sửu
Giữa giờ, cha mẹ song toàn,
Tiền vận vất vả, gian nan nhiều lần.
Anh em nào kẻ cậy trông,
Một mình xung đột, lập thân vẫy vùng.
Cuối giờ Sửu
Cuối giờ, khắc cha tuổi nầy,
Tiền vận cực khổ, gian truân hiểm nghèo.
Bốn mươi tuổi, lộc tốt tươi,
Trở về hậu vận, vinh hoa hơn người.
Đầu giờ Dần
Đầu giờ, cha sớm khắc rồi,
Số cao phát muộn đã đành hậu lai.
Tiền vận khổ sở mọi điều,
Ngoài ba mươi tuổi hiển vinh, hiển tài.
Giữa giờ Dần
Giữa giờ, phú quí thiên ban,
Đến ba mươi tuổi, công danh lẫy lừng.
Anh em hòa thuận sung vinh,
Thật là con một cháu đông đầy đàn.
Cuối giờ Dần
Cuối giờ, khắc mẹ chẳng hay,
Vợ đầu con sớm, có rồi như không.
Tiền vận vất vả không ngờ,
Ba mươi sáu tuổi lập nên gia đình.
Đầu giờ Mão
Đầu giờ, khắc mẹ còn cha,
Tính hay nông nỗi chẳng nên trò gì.
Anh em lãnh đạm vô nghì,
Vợ chồng phải khắc đến lần thứ ba.
Giữa giờ Mão
Giữa giờ, cha mẹ chung cùng,
Dù trai hay gái cũng là hiền nhân.
Giàu sang phú quí vô ngần,
Đến ba mươi tuổi lên đài vinh hoa.
Cuối giờ Mão
Cuối giờ, cha mẹ không toàn,
Bôn nam tẩu bắc, lắm ngày tiêu tan.
Hậu vận tài lộc phát liền,
Vợ hiền con thảo một nhà thêm xuân.
Đầu giờ Thìn
Dầu giờ, cha mẹ an toàn,
Tính hay nóng nảy, kém người muộn sinh.
Anh em không kẻ trung thành,
Tiền vận bất lợi, giữ mình mới yên.
Giữa giờ Thìn
Giữa giờ, cha khắc lo phiền,
Bạn bè sang trọng cơ đồ lập nên.
Tiền vận du lịch giang hồ,
Hậu vận thu xếp để cho vững bền.
Cuối giờ Thìn
Cuối giờ, khắc mẹ còn cha,
Thông minh trí sáng việc lành làm nên.
Bậu bạn lắm kẻ trung thành,
Giàu sang cũng có, môn đình cũng vui.
Đầu giờ Tỵ
Đầu giờ, khắc mẹ chẳng sai,
Vợ đầu con sớm không người đảm đương.
Sau này phú quí vinh xương,
Gái trai đều đủ thọ trường dài lâu.
Giữa giờ Tỵ
Giữa giờ cha mẹ song toàn,
Có tài, có của sang giàu lắm phen.
Họ hàng đông đủ như nêm,
Lắm con nhiều cháu, căn nguyên vững vàng.
Cuối giờ Tỵ
Cuối giờ, cha khắc không toàn,
Giàu sang phú quí, họ hàng kém xa.
Anh em nào kẻ cậy nhờ,
Tiền vận vất vả, sau đà mới nên.
Đầu giờ Ngọ
Đầu giờ, cha mẹ diên niên,
Anh em hòa thuận lại thêm họ hàng.
Trong nhà sẵn lắm của sang,
Con con, cháu cháu, khôn ngoan đủ điều.
Giữa giờ Ngọ
Giữa giờ, cha đã sớm lìa,
Lộc tài chẳng có ê chề nhiều phen.
Ngoài ba mươi tuổi việc thành,
Gái lấy chồng đẹp, trai thêm vợ hiền.
Cuối giờ Ngọ
Cuối giờ, mẹ khắc không toàn,
Vợ chồng sớm khắc, sau này mới nên.
Con đầu cửa sớm chưa yên,
Hậu vận tiến đạt làm nên gia đình.
Đầu giờ Mùi
Đàu giờ, cha mẹ hội kỳ,
Giàu sáng mà lại có bề thanh danh.
Anh em lắm kẻ tốt lòng,
Sau này phú quí vinh hoa hơn đời.
Giữa giờ Mùi
Giữa giờ, cha sớm lìa trần,
Tính hay rộng rãi, nhiều người mến yêu.
Vợ đầu con sớm khắc xung,
Hậu vận phát đạt đặng nhiều hiển vinh.
Cuối giờ Mùi
Cuối giờ, mẹ đã về Tây (chết),
Anh em lãnhđạm không hay thương mình.
Tiền vận như nước lao xao,
Hậu vận phát đạt tự nhiên lập thành.,
Đầu giờ Thân
Đầu giờ, cha mẹ an khương,
Thông minh mà lắm người khen đức dầy.
Anh em vinh hiển giàu sang.
Ruộng nương, của cải chất đầy trong kho.
Giữa giờ Thân
Giữa giờ, cha khắc phải lo,
Anh em dòng họ chẳng yêu, chẳng hòa.
Tiền vận khắc cả thê nhi,
Tha phương xa xứ, sau thì lập nên.
Cuối giờ Thân
Cuối giờ, mẹ khắc khó yên,
Họ hàng lãnh đạm, chẳng hay thương tình.
Sinh con phá hại gia đình,
Phải đi buôn bán một mình mới nên.
Đầu giờ Dậu
Đầu giờ, cha mẹ song toàn,
Thông minh mà lại đặng ngay bạn hiền.
Anh em dòng họ đến cầu,
Vinh hoa phú quí an nhàn tự do.
Giữa giờ Dậu
Giữa giờ, cha khắc chẳng yên,
Tính hay rộng rãi lại chuyên làm nghề.
Trước thì khắc cả thê nhi,
Hậu vận sẽ đặng vu qui có ngày.
Cuối giờ Dậu
Cuối giờ, khắc mẹ chẳng may,
Khắc vợ lâu ngày rồi lại khắc con.
Tiền vận chìm nổi luôn luôn,
Ngoài ba mươi tuổi bán buôn sang giàu.
Đầu giờ Tuất
Đầu giờ, mẹ khắc lo phiền,
Tính hay mau mắn, ai cầu được ngay.
Có quyền, có tước mới nên,
Tiền vận khó nhọc hậu lai thanh nhàn.
Giữa giờ Tuất
Giữa giờ, sớm đã khắc cha,
Anh em chẳng đặng thuận hòa cùng nhau.
Phu thê khắc đứa con đầu,
Ngoài bốn mươi tuổi làm giàu tự nhiên.
Cuối giờ Tuất
Cuối giờ cha mẹ an khương,
Tính hay lanh lẹ vui cười như hoa.
Anh em dòng họ gần xa,
Lộc tài được giữ đề đa thọ trường.
giờ Hợi
Đầu giờ mẹ sớm qui thiên,
Tính hay rộng rãi lại thương người nghèo.
Tiền vận vất vả lao đao,
Hậu vận sung sướng được nhiều người yêu.
Giữa giờ Hợi
Giữa giờ, cha mẹ tuổi cao,
Thông minh nói được người theo ngay về.
Anh em hòa thuận vui tươi,
Hậu vận giàu có không hề sai ngoa.
Cuối giờ Hợi
Cuối giờ, cha đã khắc rồi,
Lòng lành quảng đại lắm người ngợi khen.
Tiền vận vất vả truân chuyên,
Vợ chồng sớm khắc, duyên sau mới thành.
(Nam Nữ coi chung)
SINH THÁNG GIÊNG
(Sinh tháng Giêng, thọ thai tháng Tư)
Kiếp trước bố thí của tiền,
Kiếp này sung sướng sang giàu vinh hoa.
Xưa kia kiếp ở Kinh Châu,
Lấy vợ xa xứ mới nên gia đình.
SINH THÁNG HAI
(Sinh tháng Hai, thọ thai tháng Năm)
Tiền kiếp quê ở Tây Xuyên,
Lòng thành hỷ xả, dâng hương Phật đài.
Kiếp này đặng hưởng lộc tài,
Làm lành làm phúc, giàu sang thọ trường.
SINH THÁNG BA
(Sinh tháng Ba, thọ thai tháng Sáu)
Kiếp trước vốn ở Tân Châu,
Tính hay bỏn sẻn, bạc bài sai ngoa,
Kiếp này phải chịu gian nan,
Khá nên tích đức mới yên tuổi già.
SINH THÁNG TƯ
(Sinh tháng Tư, thọ thai tháng Bảy)
Kiếp xưa trưởng giả rất giàu,
Kiếp này vui vẻ thông minh ai bì.
Ngoài ba mươi tuổi làm nên,
Cơ đồ hưng vượng vinh hoa một đời.
SINH THÁNG NĂM
(Sinh tháng Năm, thọ thai tháng Tám)
Tiền kiếp quê ở Lãnh Nam,
Là người ỷ thế làm nên sang giàu.
Kiếp này mắc tật chân tay,
Về sau mới đặng vinh quang thọ trường.
SINH THÁNG SÁU
(Sinh tháng Sáu, thọ thai tháng Chín)
Kiếp trước cúng Phật dâng hương,
Cho nên sung sướng giàu sang kiếp này.
Nếu làm âm đức cho nhiều,
Để dành hậu vận, chung thân thọ trường.
SINH THÁNG BẢY[/B][B]
(Sinh tháng Bảy, thọ thai tháng Mười)
Hoài Nam, kiếp trước chẳng lành,
Chẳng hay bố thí làm nhân giúp người.
Kiếp này mắc bịnh liên miên,
Khá nên tích đức để dành hậu lai.
SINH THÁNG TÁM
(Sinh tháng Tám, thọ thai tháng Mười Một)
Kiếp trước có căn tu hành,
Hay xem kinh kệ lại thương kẻ nghèo.
Nên nay tài lộc trời ban,
Ba mươi tuổi đã vinh sang ai bì.
SINH THÁNG CHÍN
(Sinh tháng Chín, thọ thai tháng Chạp)
Ưng Châu, kiếp trước bất tài,
Mượn kinh, vay nợ chẳng hề trả ai.
Kiếp này lận đận gian nan,
Nên đi xa xứ mới nên cửa nhà.
SINH THÁNG MƯỜI
(Sinh tháng Mười, thọ thai tháng Giêng)
Sơn Đông, kiếp trước oai quyền,
Kiếp này lẫm liệt danh vang ai bì.
Chờ cho gặp hội Long vân,
Về sau cũng được yên thân thanh nhàn.
SINH THÁNG MƯỜI MỘT
(Sinh tháng Mười Một, thọ thai tháng Hai)
Vũ Lăng, kiếp trước không tài,
Tínhthì trầm tỉnh lại hay nghi ngờ.
Kiếp này trần bảng tân toan,
Trở về vận cuối mới mong thanh nhàn.
SINH THÁNG CHẠP
(Sinh tháng Chạp, thọ thai tháng Ba)
Tiền kiếp ăn ở hiền lành,
Kiếp này làm cả, làm đầu hương thôn.
Bạn bè họ mạc mến yêu,
Về sau quyền quí chẳng ai dám bì.
ẨN VÀ BIẾN CỦA CÁC GIỐNG CHIM
- Tuổi Tý:
Sinh tháng giêng: Phượng hoàng.
Sinh tháng hai: Sư tử.
Sinh tháng ba: Kim kê.
Sinh tháng tư: Bạch kê.
Sinh tháng năm: Bạch yến.
Sinh tháng sáu: Họa mi.
Sinh tháng bảy: Sơn lộc.
Sinh tháng tám: Khổng tước.
Sinh tháng chín: Cưu bột.
Sinh tháng mười: Châu tước.
Sinh tháng mười một: Giốc ưng.
Sinh tháng chạp: Bạch Hạc.
- Tuổi Sửu:
Sinh tháng giêng: Bạch Hạc.
Sinh tháng hai: Phượng hoàng.
Sinh tháng ba: Sư tử.
Sinh tháng tư: Kim kê.
Sinh tháng năm: Bạch kê.
Sinh tháng sáu: Bạch yến.
Sinh tháng bảy: Họa mi.
Sinh tháng tám: Sơn lộc.
Sinh tháng chín: Khổng tước.
Sinh tháng mười: Cưu bột.
Sinh tháng mười một: Châu tước.
Sinh tháng chạp: Giốc ưng.
- Tuổi Dần:
Sinh tháng giêng: Giốc ưng.
Sinh tháng hai: Bạch Hạc.
Sinh tháng ba: Phượng hoàng.
Sinh tháng tư: Sư tử.
Sinh tháng năm: Kim kê.
Sinh tháng sáu: Bạch kê.
Sinh tháng bảy: Bạch yến.
Sinh tháng tám: Họa mi.
Sinh tháng chín: Sơn lộc.
Sinh tháng mười: Khổng tước.
Sinh tháng mười một: Cưu bột.
Sinh tháng chạp: Châu tước.
- Tuổi Mão:
Sinh tháng giêng: Châu tước.
Sinh tháng hai: Giốc ưng.
Sinh tháng ba: Bạch Hạc.
Sinh tháng tư: Phượng hoàng.
Sinh tháng năm: Sư tử.
Sinh tháng sáu: Kim kê.
Sinh tháng bảy: Bạch kê.
Sinh tháng tám: Bạch yến.
Sinh tháng chín: Họa mi.
Sinh tháng mười: Sơn lộc.
Sinh tháng mười một: Khổng tước.
Sinh tháng chạp: Cưu bột.
- Tuổi Thìn:
Sinh tháng giêng: Cưu bột.
Sinh tháng hai: Châu tước.
Sinh tháng ba: Giốc ưng.
Sinh tháng tư: Bạch Hạc.
Sinh tháng năm: Phượng hoàng.
Sinh tháng sáu: Sư tử.
Sinh tháng bảy: Kim kê.
Sinh tháng tám: Bạch kê.
Sinh tháng chín: Bạch yến.
Sinh tháng mười: Họa mi.
Sinh tháng mười một: Sơn lộc.
Sinh tháng chạp: Khổng tước.
- Tuổi Tỵ:
Sinh tháng giêng: Khổng tước.
Sinh tháng hai: Cưu bột.
Sinh tháng ba: Châu tước.
Sinh tháng tư: Giốc ưng.
Sinh tháng năm: Bạch Hạc.
Sinh tháng sáu: Phượng hoàng.
Sinh tháng bảy: Sư tử.
Sinh tháng tám: Kim kê.
Sinh tháng chín: Bạch kê.
Sinh tháng mười: Bạch yến.
Sinh tháng mười một: Họa mi.
Sinh tháng chạp: Sơn lộc.
- Tuổi Ngọ:
Sinh tháng giêng: Sơn lộc.
Sinh tháng hai: Khổng tước.
Sinh tháng ba: Cưu bột.
Sinh tháng tư: Châu tước.
Sinh tháng năm: Giốc ưng.
Sinh tháng sáu: Bạch Hạc.
Sinh tháng bảy: Phượng hoàng.
Sinh tháng tám: Sư tử.
Sinh tháng chín: Kim kê.
Sinh tháng mười: Bạch kê.
Sinh tháng mười một: Bạch yến.
Sinh tháng chạp: Họa mi.
- Tuổi Mùi:
Sinh tháng giêng: Họa mi.
Sinh tháng hai: Sơn lộc.
Sinh tháng ba: Khổng tước.
Sinh tháng tư: Cưu bột.
Sinh tháng năm: Châu tước.
Sinh tháng sáu: Giốc ưng.
Sinh tháng bảy: Bạch Hạc.
Sinh tháng tám: Phượng hoàng.
Sinh tháng chín: Sư tử.
Sinh tháng mười: Kim kê.
Sinh tháng mười một: Bạch kê.
Sinh tháng chạp: Bạch yến.
- Tuổi Thân:
Sinh tháng giêng: Bạch yến.
Sinh tháng hai: Họa mi.
Sinh tháng ba: Sơn lộc.
Sinh tháng tư: Khổng tước.
Sinh tháng năm: Cưu bột.
Sinh tháng sáu: Châu tước.
Sinh tháng bảy: Giốc ưng.
Sinh tháng tám: Bạch Hạc.
Sinh tháng chín: Phượng hoàng.
Sinh tháng mười: Sư tử.
Sinh tháng mười một: Kim kê.
Sinh tháng chạp: Bạch kê.
- Tuổi Dậu:
Sinh tháng giêng: Bạch kê.
Sinh tháng hai: Bạch yến.
Sinh tháng ba: Họa mi.
Sinh tháng tư: Sơn lộc.
Sinh tháng năm: Khổng tước.
Sinh tháng sáu: Cưu bột.
Sinh tháng bảy: Châu tước.
Sinh tháng tám: Giốc ưng.
Sinh tháng chín: Bạch Hạc.
Sinh tháng mười: Phượng hoàng.
Sinh tháng mười một: Sư tử.
Sinh tháng chạp: Kim kê.
- Tuổi Tuất:
Sinh tháng giêng: Kim kê.
Sinh tháng hai: Bạch kê.
Sinh tháng ba: Bạch yến.
Sinh tháng tư: Họa mi.
Sinh tháng năm: Sơn lộc.
Sinh tháng sáu: Khổng tước.
Sinh tháng bảy: Cưu bột.
Sinh tháng tám: Châu tước.
Sinh tháng chín: Giốc ưng.
Sinh tháng mười: Bạch Hạc.
Sinh tháng mười một: Phượng hoàng.
Sinh tháng chạp: Sư tử.
- Tuổi Hợi:
Sinh tháng giêng: Sư tử.
Sinh tháng hai: Kim kê.
Sinh tháng ba: Bạch kê.
Sinh tháng tư: Bạch yến.
Sinh tháng năm: Họa mi.
Sinh tháng sáu: Sơn lộc.
Sinh tháng bảy: Khổng tước.
Sinh tháng tám: Cưu bột.
Sinh tháng chín: Châu tước.
Sinh tháng mười: Giốc ưng.
Sinh tháng mười một: Bạch Hạc.
Sinh tháng chạp: Phượng hoàng.
Phượng Hoàng chúa các loài chim,
Mỹ miều nhan sắc, chim nào dám đương.
Lộc tài trời rộng rừng cao,
Tang bồng hồ hải tháng ngày tiêu dao.
SƯ TỬ
Sư tử số chúa sơn lâm,
Ra vào nghiên ngữa núi rừng rộng khơi.
Tự nhiên tài lộc phong dinh,
Thiên niên sớm đã dự hàng công khanh.
KIM KÊ
Kim Kê giống ấy vẻ vang,
Tiếng tăm lờng lẫy khôn ngoan mọi bề.
Có cơ xảo, có mưu cao,
Hoặc văn, hoặc võ sau thì vinh hoa.
BẠCH KÊ
Bạch Kê có số sang giàu,
Công nghệ khéo léo chẳng ai dám bì.
Làm quan nức tiếng thân cần,
Quan trên trông xuống, người ta trông vào.
BẠCH YẾN
Chim Yến khéo đẹp, lại có duyên
Lộc trời tận hưởng những ngày tuổi thơ.
Vẻ buồn chẳng cơ mảy may,
Không hay đau ốm tháng ngày ấm no.
HỌA MI
Họa Mi tuy là chim nhỏ,
Số sau này gặp bước vinh hoa.
Suốt đời tài lộc đủ dùng,
Số phong lưu ấy trời dành chẳng sai.
SƠN LỘC
Sơn Lộc là giống con hươu,
Họ hàng xa cách, tha phương tháng ngày.
Tham lam tận hưởng lộc trời,
Có vàng, có ngọc suốt đời ấm no.
KHỔNG TƯỚC
Khổng Tước nức tiếng bốn phương,
Lời khen bia miệng luôn luôn tháng ngày.
Vinh hoa phú quí ở đời,
Người sinh số ấy không giàu cũng sang.
CƯU BỘT
Cưu Bột giống này hiếu thiện,
Có tài lộc chẳng kém chi ai.
Tiền vận hao tán của tài,
Đến trung, hậu vận thảnh thơi an nhàn.
CHÂU TƯỚC
Châu Tước vốn kiêu hùng hăng hái,
Có lộc tài chức tước oai quyền.
Trong nhà con cháu sung vinh,
Ra ngoài lập nghiệp, một đời vẻ vang.
GIỐC ƯNG
Chim Giốc Ưng vốn nghinh ngang,
Rượu chè ăn uống no say ai bì.
Có quyền tước, có uy nghi,
Tuổi thơ vinh hiển đến khi tuổi già.
BẠCH HẠC
Bạch Hạc sung sướng vô hồi,
Rừng cao trời rộng chí ta vẫy vùng.
Thanh nhàn nhẹ bước thang mây,
Tuổi già tận hưởng những ngày lạc quan.
(Nam Nữ coi chung)
Mười hai trực là: Kiến, Trừ, Mãn, Bính, Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thâu, Khai và Bế.
- Tuổi Tý
Sinh tháng giêng: Trực Kiến.
Sinh tháng hai: Trực Trừ.
Sinh tháng ba: Trực Mãn
Sinh tháng tư: Trực Bình.
Sinh tháng năm: Trực Định.
Sinh tháng sáu: Trực Chấp.
Sinh tháng bảy: Trực Phá.
Sinh tháng tám: Trực Nguy.
Sinh tháng chín: Trực Thành.
Sinh tháng mười: Trực Thâu.
Sinh tháng mười một: Trực Khai.
Sinh tháng chạp: Trực Bế.
- Tuổi Sửu:
Sinh tháng giêng: Trực Bế.
Sinh tháng hai: Trực Kiến
Sinh tháng ba: Trực Trừ.
Sinh tháng tư: Trực Mãn
Sinh tháng năm: Trực Bình.
Sinh tháng sáu: Trực Định.
Sinh tháng bảy: Trực Chấp.
Sinh tháng tám: Trực Phá.
Sinh tháng chín: Trực Nguy.
Sinh tháng mười: Trực Thành.
Sinh tháng mười một: Trực Thâu.
Sinh tháng chạp: Trực Khai.
- Tuổi Dần:
Sinh tháng giêng: Trực Khai.
Sinh tháng hai: Trực Bế.
Sinh tháng ba: Trực Kiến
Sinh tháng tư: Trực Trừ.
Sinh tháng năm: Trực Mãn
Sinh tháng sáu: Trực Bình.
Sinh tháng bảy: Trực Định.
Sinh tháng tám: Trực Chấp.
Sinh tháng chín: Trực Phá.
Sinh tháng mười: Trực Nguy.
Sinh tháng mười một: Trực Thành.
Sinh tháng chạp: Trực Thâu.
- Tuổi Mão:
Sinh tháng giêng: Trực Thâu.
Sinh tháng hai: Trực Khai.
Sinh tháng ba: Trực Bế.
Sinh tháng tư: Trực Kiến
Sinh tháng năm: Trực Trừ.
Sinh tháng sáu: Trực Mãn
Sinh tháng bảy: Trực Bình.
Sinh tháng tám: Trực Định.
Sinh tháng chín: Trực Chấp.
Sinh tháng mười: Trực Phá.
Sinh tháng mười một: Trực Nguy.
Sinh tháng chạp: Trực Thành.
- Tuổi Thìn:
Sinh tháng giêng: Trực Thành.
Sinh tháng hai: Trực Thâu.
Sinh tháng ba: Trực Khai.
Sinh tháng tư: Trực Bế.
Sinh tháng năm: Trực Kiến
Sinh tháng sáu: Trực Trừ.
Sinh tháng bảy: Trực Mãn
Sinh tháng tám: Trực Bình.
Sinh tháng chín: Trực Định.
Sinh tháng mười: Trực Chấp.
Sinh tháng mười một:Trực Phá.
Sinh tháng chạp: Trực Nguy.
- Tuổi Tỵ:
Sinh tháng giêng: Trực Nguy.
Sinh tháng hai: Trực Thành.
Sinh tháng ba: Trực Thâu.
Sinh tháng tư: Trực Khai.
Sinh tháng năm: Trực Bế.
Sinh tháng sáu: Trực Kiến
Sinh tháng bảy: Trực Trừ.
Sinh tháng tám: Trực Mãn
Sinh tháng chín: Trực Bình.
Sinh tháng mười: Trực Định.
Sinh tháng mười một: Trực Chấp.
Sinh tháng chạp: Trực Phá.
- Tuổi Ngọ:
Sinh tháng giêng: Trực Phá.
Sinh tháng hai: Trực Nguy.
Sinh tháng ba: Trực Thành.
Sinh tháng tư: Trực Thâu.
Sinh tháng năm: Trực Khai.
Sinh tháng sáu: Trực Bế.
Sinh tháng bảy: Trực Kiến
Sinh tháng tám: Trực Trừ.
Sinh tháng chín: Trực Mãn
Sinh tháng mười: Trực Bình.
Sinh tháng mười một: Trực Định.
Sinh tháng chạp: Trực Chấp.
- Tuổi Mùi:
Sinh tháng giêng: Trực Chấp.
Sinh tháng hai: Trực Phá.
Sinh tháng ba: Trực Nguy.
Sinh tháng tư: Trực Thành.
Sinh tháng năm: Trực Thâu.
Sinh tháng sáu: Trực Khai.
Sinh tháng bảy: Trực Bế.
Sinh tháng tám: Trực Kiến
Sinh tháng chín: Trực Trừ.
Sinh tháng mười: Trực Mãn
Sinh tháng mười một: Trực Bình.
Sinh tháng chạp: Trực Định.
- Tuổi Thân:
Sinh tháng giêng: Trực Định.
Sinh tháng hai: Trực Chấp.
Sinh tháng ba: Trực Phá.
Sinh tháng tư: Trực Nguy.
Sinh tháng năm: Trực Thành.
Sinh tháng sáu: Trực Thâu.
Sinh tháng bảy: Trực Khai.
Sinh tháng tám: Trực Bế.
Sinh tháng chín: Trực Kiến
Sinh tháng mười: Trực Trừ.
Sinh tháng mười một:Trực Mãn
Sinh tháng chạp: Trực Bình.
- Tuổi Dậu:
Sinh tháng giêng: Trực Bình.
Sinh tháng hai: Trực Định.
Sinh tháng ba: Trực Chấp.
Sinh tháng tư: Trực Phá.
Sinh tháng năm: Trực Nguy.
Sinh tháng sáu: Trực Thành.
Sinh tháng bảy: Trực Thâu.
Sinh tháng tám: Trực Khai.
Sinh tháng chín: Trực Bế.
Sinh tháng mười: Trực Kiến
Sinh tháng mười một: Trực Trừ.
Sinh tháng chạp: Trực Mãn
- Tuổi Tuất:
Sinh tháng giêng: Trực Mãn
Sinh tháng hai: Trực Bình.
Sinh tháng ba: Trực Định.
Sinh tháng tư: Trực Chấp.
Sinh tháng năm: Trực Phá.
Sinh tháng sáu: Trực Nguy.
Sinh tháng bảy: Trực Thành.
Sinh tháng tám: Trực Thâu.
Sinh tháng chín: Trực Khai.
Sinh tháng mười: Trực Bế.
Sinh tháng mười một: Trực Kiến
Sinh tháng chạp: Trực Trừ.
- Tuổi Hợi:
Sinh tháng giêng: Trực Trừ.
Sinh tháng hai: Trực Mãn
Sinh tháng ba: Trực Bình.
Sinh tháng tư: Trực Định.
Sinh tháng năm: Trực Chấp.
Sinh tháng sáu: Trực Phá.
Sinh tháng bảy: Trực Nguy.
Sinh tháng tám: Trực Thành.
Sinh tháng chín: Trực Thâu.
Sinh tháng mười: Trực Khai.
Sinh tháng mười một: Trực Bế.
Sinh tháng chạp: Trực Kiến
Kiến, Thổ khai phá nhiều nơi,
Người sinh trực ấy trọn đời gian nan.
Của cha, của mẹ không ham,
Một mình thân lập bạn cùng người dưng.
Cửa nhà ăn ở chẳng an,
Năm mươi mới đặng an nhàn tấm thân.
TRỰC TRỪ
Trực Trừ, Thủy tính thật thà,
Lời ăn tiếng nói thuận hòa ngọt ngon.
Khó hèn ít cậy bà con.
Tự mình tạo lập không bòn của ai.
Cũng vì cây chẳng nên chồi,
Cho nên số ấy không trông cậy nhờ.
TRỰC MÃN
Mãn, Thổ như thảo sơn lâm,
Người sinh trực ấy thông minh ai bì.
Sinh con nuôi nấng dễ dàng,
Tìn vật, vật ở, bạn bè người ưa.
cũng vì nhờ sức non cao,
Cầm thú biết hết, lựu đào thiếu chi.
TRỰC BÌNH
Bình, Thủy như nước trong sông,
Sóng xao sao đặng thì lòng xuyên qua.
Luận xem ngôn ngữ đoán ra,
Thật thà ít nói, thuận hòa ngọt ngon.
Đàn bà thì dễ nuôi con,
Đàn ông số ấy không giàu cũng sang.
ĐỊNH
Định, Mộc cây hãy đương xanh,
Người sinh số ấy ăn chơi thanh nhàn.
Đần ông số ấy làm quan,
Đàn bà hóa khẩu ngửa ngang xẳng chồng.
Của, con có cũng như không,
Bởi cây tươi tốt, trái bông thiếu gì.
TRỰC CHẤP
Chấp, Hỏa như lửa trong xe,
Ai mà phạm đến thời nghe tưng bừng.
Chẳng giận, giận thì hành hung,
Ai phải, phải cùng; ai quấy, quấy cho.
Thuở xưa Đại Thánh thành thân,
Phá tan xe lửa cháy tiêu chẳng còn.
TRỰC PHÁ
Phá, Hỏa như lửa cháy non,
Người sinh trực ấy hao con, tổn tài.
Hết lòng, hết dạ cùng người,
Một lời chuốt ngót phủi rồi tay không.
Cũng vì hỏa pháp diệm sơn,
Nào còn biết nghĩa, biết ơn đến mình.
TRỰC NGUY
Nguy, Thủy sóng bủa ba đào,
Ngời sinh trực ấy tài cao hơn người.
Khôn ngoan, quỷ quyệt lợi lanh,
Vinh hoa có thuở, hiểm nghèo có khi.
Đàn ông sang trọng ai bì,
Đàn bà cắn đắng, con thì khó nuôi.
TRỰC THÀNH
Thành, Kim vàng đúc song phi,
Một đôi song kiếm ai mà dám đương.
Khôn ngoan trí huệ thông minh,
Số người khéo léo, lập binh cầm quyền.
Đàn ông sạch việc mỹ miều,
Đàn bà lận đận, vui chiều buồn mai.
TRỰC THÂU
Trực Thâu như nước trong ao,
Tuy không chỗ chứa mà còn tự nhiên.
Bông sen mọc tận dưới bùn,
Khi nở đỏ thắm, mùi hương ngạt ngào.
TRỰC KHAI
Khai, Kim vàng đúc một đời,
Kẻ đòi đũ xuyến, người đòi đúc trâm.
Đàn ông chức phận trong dòng,
Đàn bà đưa đẩy trong lòng bao dung.
TRỰC BẾ
Bế, Hỏa tợ lửa mới nhen,
Người sinh trực ấy hao công tốn tiền.
Một mình không cậy nhờ ai,
Nam tần, bắc hải một mình lập thân.
Thập Can có mười chữ là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Mỗi chữ hiện ra hợp với vận mạng tốt xấu, sang, hèn v.v... của mỗi người Nam và Nữ.
(Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thân, Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần)
Nhân sinh Giáp tự biến thành Điền,
Phú quí vinh hoa thực lộc thiên.
Phụ mẫu huynh đệ tha biệt sở,
Phu thê nhị đại hậu song toàn.
Chữ Giáp số có đất điền,
Bằng không cũng hưởng lộc tài tự nhiên.
Anh em nào có cậy trông,
Tha phương lập nghiệp mà nên cửa nhà.
Vợ chồng thay đổi nhiều lần,
Trai thay đổi vợ, gái thay đổi chồng.
Cho hay duyên số tại trời,
Khá làm âm đức, phúc dành hậu lai.
Số này tuổi nhỏ tay không,
Lớn lên có của,vợ chồng làm nên.
ẤT
(Ất Hợi, Ất Dậu, Ất Mùi, Ất Tỵ, Ất Mão, Ất Sửu)
Nhân sinh Ất tự biến thành Vong,
Gia thất tiền tài tất thị không.
Lục súc tị phiền du vong bại,
Phu thê biến cải định nan phùng.
Người sinh chữ Ất gian nan,
Lắm khi dào dạt, lắm lần tay không.
Nuôi vật, vật cũng tang thương,
Ở cùng bậu bạn chẳng phần đặng yên.
Vợ chồng thay đổi lương duyên,
Trai thay đổi vợ, gái thay đổi chồng.
Số này sớm cách quê hương,
Ra ngoài lập nghiệp mới nên cửa nhà.
Cho nên số ở Thiên tào,
Người hiền lận đận, tuổi già nhờ con.
CHỮ BÍNH
(Bính Dần, Bính Tý, Bính Tuất, Bính Thân, Bính Ngọ, Bính Thìn)
Nhân sinh Bính tự biến thành Tù,
Lxo thiểu vô an hạn bất chu.
Sở hữu ngoại nhân y hữu định,
Thân cư quan quỉ bá niên trường.
Chữ Bính số cũng quạnh hiu,
Người sinh chữ ấy trọn đời âu lo.
Tuổi nhỏ bịnh hoạn ốm đau,
Lớn tuổi cô quạnh một mình thảm thương.
Số này lập nghiệp tha phương,
Có chí tu niệm kính tin Phật Trời.
Nếu mà giữ dạ hiền lương,
Tuổi già sẽ được lộc tài tự nhiên.
Những người có chí thiện nhân,
Có khi lao khổ, có ngày thảnh thơi.
CHỮ ĐINH
(Đinh Mão, Đinh Sửu, Đinh Hợi, Đinh Dậu, Đinh Mùi, Đinh Tỵ)
Nhân sinh Đinh tự biến thành Du,
Gia thất tiền tài thường đảo lộn.
Thiếu niên lao khổ uổng công phu,
Trung vận trùng lai phú đắc vinh.
Chữ Đinh biến thành chữ Du,
Số nhỏ tật bịnh ốm đau thường thường.
Lắm lần tai nạn thảm thương.
Nhờ có hồng phúc Phật Trời chở che.
Lớn lên thông tuệ khác thường,
Có quyền có chức, có tài tự nhiên.
Có chí sáng tác mọi ngành,
Có tài có đức cầm quyền điểm binh.
Xét xem qua số nợ duyên,
Trai đôi ba vợ, gái thì truân chuyên.
Nết na, đức hạnh dung hòa,
Nhưng mà cũng chịu vui chiều buồn mai.
Cho hay căn số tự Trời,
Duyên đầu lỡ dở, hiệp hòa duyên sau.
Có căn tích thiện tu nhân,
Tuổi già chung hưởng lộc tài ấm no.
CHỮ MẬU
(Mậu Thìn, Mậu Tý, Mậu Tuất, Mậu Thân, Mậu Ngọ, Mậu Dần)
Nhân sinh Mậu tự biến thành Quả,
Phiêu phất tha phương định thất gia.
Cô độc một thân không chỗ định,
Hành thân phảm mại lạc ngâm nga.
Chữ Mậu cô quạnh tha phương,
Lìa nhà, lìa xứ, lắm lần gian nan.
Anh em ruột thịt chẳng hòa,
Tha phương bậu bạn chỉ nhờ người dưng.
Gái thì lận đận lương duyên,
Khi thì vui vẻ, khi tan nát lòng.
Đôi lần mới dặng thành song,
Tuổi trẻ lao khổ, tuổi già nhờ con.
Tính hay tích thiện từ hòa,
Tin Trời tưởng Phật, lòng hằng ái tha.
Những ai có chí tu nhân,
Tuy rằng hoạn nạn, phúc còn hậu lai.
CHỮ KỶ
(Kỷ Ty, Kỷ Mão. Kỷ Sửu, Kỷ Hợi, Kỷ Dậu, Kỷ Mùi)
Nhân sinh Kỷ tự biến thành Ân,
Gia thất tiền tài mạng giàu sang.
Gia sự đa tài, sinh con thảo,
Hữu thời tấn thối tợ phi vân.
Chữ Kỷ biến thành chữ Ân,
Tính tành mau mắn, làm ơn cho người.
Tấm lòng trung trực vẹn bề,
Làm ơn nên oán nhiều lần lo toan.
Của, con có sẵn tuổi già,
Tuổi trẻ lao khổ, tha phương lập thành.
Nhiều khi tụ tán như sương,
Khi ăn chẳng hết, lúc thì tay không.
Nợ duyên tan vỡ buồn lòng,
Đôi lần ly hiệp mới nên gia đình.
Khá nên tích thiện tu thân,
Tuổi già sẽ thấy môn đình sum vinh.
CHỮ CANH
(Canh Ngọ, Canh Thìn, Canh Dần, Canh Tý, Canh Tuất, Canh Thân)
Nhân sinh Canh tự biến thành Cô,
Số ấn công hầu lưu đất khách.
Gia thất gây nên thừa tổ đức,
Phúc tài tái tận mãi vinh hoa.
Chữ Canh biến thành chữ Cô,
Số ấn công hầu nên danh phận.
Bằng không thì cũng lắm nghề khép thay.
Vợ chồng cách trở sơn xuyên,
Đôi lần ly hiệp mới nên cửa nhà.
Gái thì hiu quạnh muộn màng,
Bằng không thì cũng đôi lần mới nên.
Số này tu niệm thì hay,
Hậu lai sẽ hưởng phúc dày lộc cao.
Có đâu thiên vị người nào,
Số cao thì hưởng lộc tài tự nhiên.
CHỮ TÂN
(Tân Mùi, Tân Tỵ, Tân Mão, Tân Sửu, Tân Hợi, Tân Dậu)
Nhân sinh Tân tự biến thành Tan,
Tính khí hiền lương, lập nghiệp nan.
Phu phụ nhất tâm lưỡng nhân thú,
Bằng hữu cự tộc rất vinh quang.
Chữ Tân biến thành chữ Tan,
GHia đình dời đổi đắng cay muôn vàn.
Một thân tự lập mà nên,
Tha phương lắm độ, phong sương hải tần.
Lương duyên thay đổi đôi lần,
Tuổi già phú túc miên miên thọ trường.
Những người có chí thiện nhân,
Trời dành hậu quả hưởng nhờ phúc dư.
CHỮ NHÂM
(Nhâm Thân, Nhâm Ngọ, Nhâm Thìn, Nhâm Dần, Nhâm Tý, Nhân Tuất)
Nhân sinh Nhâm tự biến thành Vương,
Thân thọ mạng trường thiên số chung.
Tị hiểm hung đồ tha biệt sở,
Thân cư quan quí hậu an khương.
Chữ Nhâm biến thành cữ Vương,
Thân thì thọ số, mạng thì vinh sang.
Có lần cách trở gia hương.
Xứ xa lập nghiệp, vinh sang ai bì.
Số này tổ nghiệp không nhờ,
Thân lưu đất khách lập nên cơ đồ.
Trai thì vợ đôi vợ ba,
Gái thì số cũng đôi lần mới nên.
Khá nên tích đức thiện nhân,
Hậu lai sẽ hưởng phúc trời ấm no.
CHỮ QUÝ
(Quý Dậu, Quý Sửu, Quý Tỵ, Quý Hợi, Quí Mùi, Quý Mão)
Nhân sinh Quý tự biến thành Thiên,
Tiền hậu phu thê lộc y nhiên.
Chức phận văn chương đa phú quí.
Trí huệ vinh hoa hưởng thọ trường.
Chữ Quý biến thành chữ Thiên,
Trai thời chức phận, gái thời chính chuyên.
Số này cũng có đất điền,
Gia môn phú quí thọ trường bền lâu.
Vợ chồng hòa thuận đủ điều,
Khi ra phong nhã, khi vào hào hoa.
Nếu mà tích thiện tu thêm,
Ngày sau con cháu miên miên cửu trường.(còn tiếp).

CUNG CÀN:

LUẬN VỀ TÁNH TÌNH VÀ VẬN MẠNG
Của mỗi người chịu ảnh hưởng của Ngũ Đế

CON NHÀ THANH ĐẾ:

CON NHÀ HUỲNH ĐẾ:

CON NHÀ BẠCH ĐẾ:

CON NHÀ XÍCH ĐẾ:

CON NHÀ HẮC ĐẾ:


ĐÂY NÓI VỀ PHẦN TƯỚNG

KIM TINH THỦ MẠNG

MỘC TINH THỦ MẠNG

THỔ TINH THỦ MẠNG

THÁI DƯƠNG THỦ MẠNG

THỦY TINH THỦ MẠNG

HỎA TINH THỦ MẠNG


COI CHO TRẺ MỚI SINH


COI CHO TRẺ MỚI SINH


TÍNH SỐ NĂM SINH TỐT, XẤU

SỐ THÁNG SINH

SỐ NGÀY SINH

SỐ GIỜ SINH

LỜI GIẢI

2 lượng 3 chỉ

2 lượng 4 chỉ

lượng 5 chỉ

2 lượng 6 chỉ

2 lượng 7 chỉ

2 lượng 8 chỉ

2 lượng 9 chỉ

3 lượng

lượng 1 chỉ

3 lượng 2 chỉ

3 lượng 3 chỉ

3 lượng 4 chỉ

3 lượng 5 chỉ

3 lượng 6 chỉ

3 lượng 7 chỉ

3 lượng 8 chỉ

lượng 9 chỉ

4 lượng

4 lượng 1 chỉ

4 lượng 2 chỉ

4 lượng 3 chỉ

4 lượng 4 chỉ

4 lượng 5 chỉ

4 lượng 6 chỉ

4 lượng 7 chỉ

4 lượng 8 chỉ

4 lượng 9 chỉ

5 lượng

5 lượng 1 chỉ

5 lượng 2 chỉ

5 lượng 3 chỉ

5 lượng 4 chỉ

5 lượng 5 chỉ

5 lượng 6 chỉ

5 lượng 7 chỉ

5 lượng 8 chỉ

5 lượng 9 chỉ

6 lượng

6 lượng 1 chỉ

6 lượng 2 chỉ

6 lượng 3 chỉ

6 lượng 4 chỉ

6 lượng 5 chỉ

6 lượng 6 chỉ

6 lượng 7 chỉ

6 lượng 8 chỉ

6 lượng 9 chỉ

7 lượng

7 lượng 1 chỉ

(CÒN TIẾP)

Không có nhận xét nào

Được tạo bởi Blogger.