Header Ads

TRÍCH THIÊN TỦY (phần 3)

TRÍCH THIÊN TỦY (phần 3)



Chương 9: can chi tổng luận
Âm dương thuận nghịch chi thuyết, “lạc thư” lưu hành chi dụng, kỳ lý tín hữu chi dã, kỳ pháp bất khả chấp nhất.
Nguyên chú: Âm dương sinh tử, dương thuận âm nghịch, thử lý xuất vu “lạc thư”. Ngũ hành lưu hành chi dụng, cố tín hữu chi, nhiên giáp mộc tử ngọ, ngọ vi tiết khí chi địa, lý cố nhiên dã, nhi ất mộc tử hợi, hợi trung hữu nhâm thủy, nãi kỳ đích mẫu, hà vi tử tai? Phàm thử giai tường kỳ can chi khinh trọng chi cơ, mẫu tử tương y chi thế, âm dương tiêu tức chi lý, nhi luận cát hung khả dã. nhược chuyên chấp sinh tử bại tuyệt chi thuyết, suy đoán đa ngộ hỹ.
Dịch nghĩa:
             Âm dương sinh tử, dương thuận âm nghịch, lý ấy phát xuất từ “lạc thư”. Ngũ hành lưu hành trong trời đất lấy đó mà làm dụng, tất nhiên cái lý ấy có thể tin được, còn như giáp mộc tử ở chi ngọ, ngọ hỏa tiết khí giáp mộc, lý lẻ tất nhiên là như thế, nhưng ất mộc tử ở chi hợi, hợi tàng nhâm thủy sinh ất mộc tức con được mẹ sinh, hà cớ vì sao lại tử? Thế cho nên đại phàm luận đoán tứ trụ trước tiên phải nên am tường cái can chi khinh trọng, cái sinh ta và cái ta sinh ra sao, lý lẻ âm dương tiêu tức như thế nào sau đó mới có thể dự đoán họa phúc cát hung vận số. Bằng như cứ chấp nê vào cái thuyết sinh tử bại tuyệt, tất suy đoán sai lầm lớn vậy.   
Nhâm thị viết: Âm dương thuận nghịch chi thuyết, kỳ lý xuất “lạc thư”, lưu hành chi dụng, bất quá dương chủ tụ, dĩ tiến vi thối, âm chủ tán, dĩ thối vi tiến. nhược luận mệnh lý, tất bất chuyên dĩ thuận nghịch vi bằng, tu quan nhật chủ chi suy vượng, sát sinh thời chi thiển thâm, cứu tứ trụ chi dụng thần, dĩ luận cát hung, tắc liễu nhiên hỹ. chí vu trường sinh mộc dục đẳng danh, nãi giả tá hình dung chi từ dã. Trường sinh giả, do nhân chi sơ sinh dã; mộc dục giả, do nhân chi sơ sinh nhi mộc dục dĩ khứ cấu dã; quan đái giả, hình khí tiệm trường, do nhân niên trường nhi quan đái dã; lâm quan giả, do trường nhi vượng, do nhân chi khả dĩ xuất sĩ dã; đế vượng giả, tráng thịnh chi cực, do nhân chi phụ đế nhi đại hữu vi dã; suy giả, thịnh cực nhi suy, vật chi sơ biến dã; bệnh giả, suy chi thậm dã; tử giả, khí chi tẫn nhi vô dư dã; mộ giả, tạo hữu thu tàng, do nhân chi mai vu thổ dã; tuyệt giả, tiền chi khí tuyệt nhi hậu tương tục dã; thai giả, hậu chi khí tục nhi kết thai dã; dưỡng giả, như nhân chi dưỡng mẫu phúc dã, tự thị nhi phục trường sinh, tuần hoàn vô đoan hỹ. nhân chi nhật chủ bất tất sinh phùng lộc vượng, tức nguyệt lệnh hưu tù, nhi niên nhật thời trung, đắc trường sinh lộc vượng, tiện bất vi nhược, tựu sử phùng khố, diệc vi hữu căn. Thời thuyết vị đầu mộ nhi bất tất xung giả, tục thư chi mậu dã. cổ pháp chích hữu tứ trường sinh, tòng vô tý, ngọ, mão, dậu vi âm trường sinh chi thuyết. thủy sinh mộc, thân vi thiên quan, hợi vi thiên môn, thiên nhất sinh thủy, tức sinh sinh bất tức, cố mộc giai sinh tại hợi. mộc tử ngọ vi hỏa vượng chi địa, mộc chí ngọ phát tiết dĩ tẫn, cố mộc giai tử tại ngọ. ngôn mộc nhi dư khả loại suy hỹ. phu ngũ dương dục vu sinh phương, thịnh vu bản phương, tệ vu tiết phương, tẫn vu khắc phương, vu lý vi thuận; ngũ âm sinh vu tiết phương, tử vu sinh phương, vu lý vi bối. Tức khúc vi chi thuyết, nhi tý ngọ chi địa, chung vô sản kim sản mộc chi đạo; dần hợi chi địa, chung vô diệt hỏa diệt mộc chi đạo. Cổ nhân thủ cách, đinh ngộ dậu dĩ tài luận, ất ngộ ngọ, kỷ ngộ dậu, tân ngộ tý, quý ngộ mão, dĩ thực thần tiết khí luận, câu bất dĩ sinh luận. ất ngộ hợi, quý ngộ thân dĩ ấn luận, chân bất dĩ tử luận. Tức kỷ ngộ dần tuế chi bính hỏa, tân ngộ tỵ tàng chi mậu thổ, diệc dĩ ấn luận, bất dĩ tử luận. Do thử quan chi, âm dương đồng sinh đồng tử khả tri dã, nhược chấp định âm dương thuận nghịch, nhi dĩ dương sinh âm tử, âm sinh dương tử luận mệnh, tắc đại mậu hỹ. Cố “tri mệnh chương” trung “thuận nghịch chi cơ tu lý hội”, chính vi thử dã.
Bính tý kỷ hợi ất hợi bính tý
Canh tý tân sửu nhâm dần quý mão giáp thìn ất tỵ
Ất hợi nhật nguyên, sinh vu hợi nguyệt, hỷ kỳ thiên can lưỡng thấu bính hỏa, bất thất dương xuân chi cảnh. Hàn mộc hướng dương, thanh nhi thuần túy, tích hồ hỏa vô căn, thủy mộc thái trọng, độc thư vị thụ; kiêm chi trung niên nhất lộ thủy mộc, sinh phù thái quá, cục trung hỏa thổ giai thương, dĩ trí tài tiên tụ nhi chí mùi thân. Nhiên hỷ vọ kim, nghiệp tất thanh cao. Nhược dĩ niên thời vi ất mộc bệnh vi, nguyệt nhật vi tử địa, khởi bất hưu tù dĩ cực, nghi dụng sinh phù chi vận? kim dĩ hợi tý chi thủy tác sinh luận, tắc bất nghi tái kiến thủy mộc dã.
Mậu ngọ ất mão quý mão quý hợi
Bính thìn đinh tị mậu ngọ kỷ mùi canh thân tân dậu.
Thử xuân thủy đa mộc, quá vu tiết khí, ngũ hành vô kim, toàn tại hợi thời tỉ kiếp bang thân. Hiềm kỳ hợi mão củng cục, hựu thấu mậu thổ, khắc tiết tịnh kiến, giao mậu ngọ vận bất thọ. nhược cư thư vân, quý thủy lưỡng tọa trường sinh, thời phùng vượng địa, hà dĩ bất thọ? hựu vân “thực thần hữu thọ thê đa tử, thực thần sinh vượng thắng tài quan”, thử danh lợi lưỡng toàn, đa tử hữu thọ chi cách dã. tổng dĩ âm dương chi thuyết, bất túc bằng dã.
Nhâm thị viết:
Cái thuyết âm dương thuận nghịch, lý phát xuất từ “lạc thư”, hai cái khí này lưu hành trong trời đất làm dụng, chẳng qua dương khí tính hay tụ, nên lấy tiến làm thối, âm khí tính hay tán, nên lấy thối làm tiến. Thế cho nên người học dự đoán cát hung mệnh vận bất tất chuyên lấy thuận nghịch làm luận lý, mà cần nên quan sát xem nhật chủ suy vượng, nghiệm xem căn gốc nông sâu ra sao, xét xem tứ trụ dụng thần hữu lực hay vô lực, từ đó mà biết được cát hung vậy. Đến như trường sinh mộc dục các loại, cũng chỉ là mượn danh gọi để chỉ cho hậu học hình dung mà thôi. Nó nói lên giai đoạn thành, thịnh suy hủy của kiếp người hay sự vật. Trường sinh chỉ con người mới bắt đầu sinh; do con người mới sinh cần sự tắm sạch nên gọi là mộc dục, hình thể dần dần lớn mạnh gọi là quan đới, lâm quan là giai đoạn con người xuất sĩ ra làm quan, đế vượng là giai đoạn cực thịnh của con người và thịnh cực tắc suy cho nên thời kỳ này gọi là suy, suy lâu thời tắc bệnh, bệnh lâu thời phải chết hai giai đoạn này gọi là bệnh tử, tạo hóa ra muôn loài cũng từ đất và cũng là nơi mộ địa của muôn loài, vạn vật bị chôn vùi trong mộ địa khí suy cùng cực cho nên hai giai đoạn này gọi là mộ tuyệt của sự vật; sự vật trong trời đất không thể nào suy tuyệt mãi cho nên vật cực tất sinh thời kỳ này gọi thai dưỡng, và cứ như thế mà  tuần hoàn lưu chuyển không ngừng vậy.
Đến như nhật chủ bất tất sinh phùng lộc vượng, tức nguyệt lệnh hưu tù, mà trong trụ năm ngày giờ đắc trường sinh lộc vượng, nhân đó được xem là cường vượng, hay như tứ trụ còn địa chi có khố cũng được coi như là có căn gốc. Nên mới có cái thuyết là đầu mộ cần nên xung động, tục thư thật sai lầm quá vậy. Cổ pháp duy chỉ có tứ trường sinh, chứ không bao giờ có cái thuyết rằng tý, ngọ, mão, dậu là âm trường sinh bao giờ cả. Thủy sinh mộc, thân là cung vị thiên quan, hợi là thiên môn, thiên nhất sinh thủy, tức sinh sinh không ngừng, thế cho nên mộc trường sinh tại hợi là thế. Cung vị ngọ hỏa là nơi tử địa của mộc, do mộc sinh hỏa liệt hỏa thiêu cháy mộc mà ra. Các loại ngũ hành khác cứ thế mà suy.
             Như ngũ hành can dương sinh ra ở nơi sinh phương, thịnh ở bản phương, suy ở tiết phương, tuyệt nơi khắc phương, lý ấy tất nhiên là như vậy; còn ngũ hành can âm sinh ra ở tiết phương, tử ở sinh phương, lý ấy thật trái với tự nhiên vậy. Lại còn nói là “Đất tý ngọ cung  không thể sinh kim sinh mộc; Đất hợi dần không thể diệt hỏa diệt mộc”. Cổ nhân thủ cách, đinh gặp dậu lấy tài luận, ất gặp ngọ, kỷ gặp dậu, tân gặp tý, quý gặp mão lấy thực thần tiết khí luận, toàn không lấy trường sinh luận. Ất gặp hợi, quý gặp thân lấy ấn luận, không nên luận tử. Lại như kỷ gặp dần tàng can bính hỏa, tân gặp tỵ tàng can mậu thổ, cũng đồng ấn luận, không nên luận tử. Từ đó cho thấy, âm dương đông sinh đồng tử là điều dể hiểu, bằng như cố chấp âm dương thuận nghịch, dương sinh âm tử, âm sinh dương tử lấy đó mà luận mệnh, rất có thể sai lầm lớn vậy. Cho nên, “chương Tri Mệnh” có nói “thuận nghịch chi cơ tu lý hội” là như vậy đó.
Bính tý kỷ hợi ất hợi bính tý
Canh tý tân sửu nhâm dần quý mão giáp thìn ất tỵ.
             Nhật nguyên ất hợi sinh vào tháng hợi, rất mừng lưỡng bính hỏa thấu can, không sợ mất đi cái vẻ đẹp của mùa xuân. Hàn mộc hướng dương, thanh thuần không tạp, tiếc rằng bính hỏa không có căn gốc, thủy mộc lại thái quá, văn nghiệp không thành tựu; với lại trung vận nhất lộ thủy mộc sinh phù thái quá, hỏa thồ trong trụ bị tổn thương, đọc sách không thành nhưng tài vận thì rất tốt đẹp. Tứ trụ mừng không thấy kim tất sự nghiệp thanh cao. Nếu như cứ cố chấp theo luận thuyết cho rằng ất mộc bệnh ở trụ năm trụ giờ tý thủy, tử ở trụ tháng hợi, từ đó suy ra rằng nhật nguyên suy kiệt cùng cực, rất nên lấy dụng thần sinh phù nhật chủ, rồi chọn lấy hợi tý thủy làm dụng thần sinh trợ nhật thần, từ đấy không nên tái kiến thủy mộc vậy.
Mậu ngọ ất mão quý mão quý hợi
Bính thìn đinh tị mậu ngọ kỷ mùi canh thân tân dậu.
             Tứ trụ quý thủy sinh vào mùa xuân trong trụ ất mộc xuất hiện quá nhiều, nhật nguyên tiết khí thái quá, ngũ hành vô kim tư phù, chỉ dựa vào quý hợi thủy trụ giờ bang trợ. Hiềm vì hợi mão bán hợp mộc cục, thiên can lại xuất hiện mậu thổ khắc tiết cùng cực, đại vận mậu ngọ hỏa thổ đồng lâm khắc tiết quý thủy nhật nguyên mạng vong. Nếu như cứ cố chấp theo ngụy thư cho rằng quý thủy trường sinh ở trụ thán và trụ ngày, trụ giờ cư kình dương vượng địa, hà cớ vì sao mà đoản mệnh? Lại còn nói “thực thần hữu thọ đa thê tử, thực thần sinh vượng thắng tài quan”, lấy tứ tụ trên mà nói danh lợi lưỡng toàn, nhiều con cháu chăng. Nói cho cùng thì cái thuyết âm dương thật không lấy chi làm bằng chứng thật. 
Thiên địa thuận toại nhi tinh túy giả xương, âm dương quai bội nhi hỗn loạn giả vong.
(Thiên địa thuận toại cho cái tinh túy sáng sủa, âm dương trái nghịch để cái hỗn loạn diệt vong.)

Nguyên chú: Bất luận hữu căn vô căn, câu yếu thiên phúc địa tái.
Nguyên chú: Bất luận hữu căn hay vô căn, đều cần thiết xem xét kỹ cả Thiên can cùng Địa chi.
Nhâm thị viết: phương pháp chọn dụng Can Chi, thấy Can cần phải xem thêm Chi, thấy Chi cũng phải xét kỹ Can. Như hỉ Giáp Ất, mà gặp thêm dần mão hợi tý, tắc sanh vượng, gặp phải thân dậu, tắc thời khắc bại; như kỵ Bính Đinh, thời lấy hợi tý chế phục, nếu lấy 4 chi tị ngọ dần mão thời phóng túng quá rồi. Như hỉ dần mão, mà xét lấy Giáp Ất Nhâm Quý thởi được sanh vượng, còn xét lấy Canh Tân thời khắc bại vậy; hay như kỵ tị ngọ, xét lấy Nhâm Quý là để chế phục, còn xét lấy Bính Đinh Giáp Ất, chỉ là lấy cho sướng mà thôi. Không những như vậy, Can thông căn cho chi, chi gặp sanh phù, tắc gốc Can Chi cùng kiên cường, chi gặp xung khắc, tắc gốc Can Chi như bị bật rể. Chi thụ ấm cho Can, Can gặp sanh phù, tắc Chi được ấm thịnh; Can gặp khắc chế, tắc Chi cũng suy vi. Phàm trong tứ trụ Can Chi của mệnh, thời hiển nhiên gặp cát thần mà không là cát, gặp phải hung thần mà chẳng thành hung, đều là vì lý do ấy cả, điều này chẳng phải chỉ luận khí chất của riêng Thiên can mà phải luận song hành cả khí chất Địa chi, tổng hợp lại chính là cái ý “Thiên phúc địa tái”.
Kỷ Hợi , Đinh Mão , Canh Thân , Canh Thìn
Bính dần - Ất sửu - Giáp tý - Quý hợi - Nhâm tuất - Tân dậu
Canh kim tuy sanh xuân lệnh, chi tọa lộc vượng, thì phùng ấn tỉ, túc dĩ dụng quan. Địa Chi tái dĩ mão mộc tài tinh, hựu đắc hợi thủy sanh phù hữu tình, Đinh hỏa chi căn dũ cố, sở vị "Thiên địa thuận toại nhi tinh túy giả xương" dã. Tuế vận phùng Nhâm Quý hợi tý, Can hữu Kỷ ấn vệ quan, chi đắc mão tài hóa thương, sanh bình lý hiểm như di, thiểu niên khoa giáp, sĩ chí phong cương. Kinh vân: "Nhật chủ tối nghi kiện vượng, dụng thần bất khả tổn thương", tín tư ngôn dã. 
Canh kim tuy sanh lệnh tháng mùa xuân, tọa chi Thân là lộc vượng, trụ giờ gặp Ấn Tỉ, đủ để dụng được Quan. Địa chi tái kiến mão mộc tài tinh, lại được hợi thủy sanh phù hữu tình, gốc Đinh hỏa càng bền chặt, nên gọi là "Thiên địa thuận toại nhi tinh túy giả xương" đấy thôi !. Tuế vận gặp Nhâm Quý hợi tý, Can có Kỷ là ấn vệ Quan, chi được mão tài hóa Thương, suốt đời không sợ nguy hiểm, thiếu niên đã khoa giáp, khi lớn cũng làm đến tướng soái. Kinh cho rằng: "Nhật chủ cần nhất kiện vượng, dụng thần không thể bị tổn thương", lời ấy chẳng sai chạy.
Kỷ dậu  , Đinh mão  , Canh Thìn  , Giáp thân
Bính dần - Ất sửu - Giáp tý - Quý hợi - Nhâm tuất - Tân dậu
Trụ này cũng lấy Đinh hỏa Quan tinh làm dụng, Địa chi cũng kiến mão mộc tài tinh nâng đỡ, so với tứ trụ trước nhiều điểm tương đồng nhưng có khác biệt nho nhỏ, đó là mão dậu xung nhau, khắc bại gốc Đinh hỏa, trong Chi ít thủy, Tài tinh hữu khắc vô sanh, tuy trụ giờ thấu Giáp mộc nhưng đóng ở chi Thân, thành ra Địa chi chẳng nâng đỡ được can Giáp, tuy có mà như không. Nên xuất thân cựu gia, chuyện đèn sách không tiếp tục được, lại phá hao hình thương; hạn vào Tuất vận, Chi thuộc phương tây, bần khốn không chịu nổi.
Canh thân  Nhâm ngọ  Tân dậu  Quý tị
Quý mùi -  Giáp thân - Ất dậu - Bính tuất - Đinh hợi - Mậu Tý
Tứ trụ này Canh Tân Nhâm Quý, kim thủy đều trong sáng, rõ ràng minh bạch, Địa chi thân dậu tị ngọ, kim hỏa nung đúc thành công, nên khí tháng ngọ hỏa đắc dụng, lý ấy ứng với danh lợi đều sáng sủa tốt đẹp. Nhưng điều đáng tiếc là tứ trụ ngũ hành vô mộc, kim tuy thất lệnh nhưng nhiều, hỏa tuy đương lệnh mà không có phụ trợ; lại ngại Nhâm Quý thêm vào, buộc Canh Tân sanh trợ thêm, mà ở Thân lại đắc Trường sanh, thời Nhâm thủy càng thêm sướng (mạnh). Tuy có tị hỏa giúp ngọ nhưng tị dậu hợp kim, thời ngọ hỏa tất cô thế. Cho nên hai vận thân dậu, phá hao bất thường; trong vận Bính tuất, bắt đầu giúp trợ dụng thần, gặp gỡ vận hội lớn; vừa giao với vận hợi, Nhâm thủy được Lộc, Quý thủy lâm Đế vượng, hỏa khí bị khắc cùng cực, tan nhà nát cửa mạng vong.
Canh thân  , Nhâm ngọ  , Tân dậu  , Giáp ngọ
Quý mùi - Giáp thân - Ất dậu - Bính tuất - Đinh hợi - Mậu Tý
Tứ trụ này cũng dụng Đinh hỏa trong ngọ làm Sát, Nhâm thủy cũng tác động vào Chi ngọ, lại có Canh kim sanh phù. Mừng ở chổ giờ ngọ trợ giúp, càng hay có Thiên can phụ trợ Giáp mộc, thời hỏa được ấm thịnh. Vả lại Nhâm thủy thấy Giáp mộc thành ra tham sanh, không đến đối địch với hỏa, tứ trụ có cái thế tương sanh hữu nghị, không có phong thái tranh khắc lẫn nhau, trung niên tên đề Hương bảng, kẻ sĩ làm tới Giám sát quan (Ngự sử). So với tứ trụ trước chỉ đổi lại trước sau một giờ, đã thành cách cục thâm sâu (Thiên uyên chi cách), mới gọi là “sai một ly đi một dặm” là vậy.
Thiên toàn nhất khí, bất khả sử địa đức mạc chi tái.
(Khí chất Thiên can toàn vẹn [là một loại], chẳng lẽ không thể dùng tới khí vượng của Địa chi.)
-  Nguyên chú: Tứ Giáp tứ Ất, nhi ngộ dần thân mão dậu, vi địa bất tái.
Nguyên chú: Tứ Giáp tứ Ất, mà ngộ dần thân mão dậu, là Địa (chi) bất tái (không chuyên chở/phù trợ lẫn nhau).
-  Nhâm thị viết:
Thiên toàn nhất khí giả, Thiên Can tứ Giáp, tứ Ất, tứ Bính, tứ Đinh, tứ Mậu, tứ Kỷ, tứ Canh, tứ Tân, tứ Nhâm, tứ Quý, giai thị dã. Địa Chi bất tái giả, Địa Chi dữ Thiên Can vô sanh hóa dã. Phi đặc tứ Giáp tứ Ất nhi ngộ thân dậu dần mão vi bất tái, tức toàn thụ khắc vu Địa Chi. Hoặc phản khắc Địa Chi, hoặc Thiên Can bất cố Địa Chi, hoặc Địa Chi bất cố Thiên Can, giai vi bất tái dã. Như tứ Ất dậu giả, thụ khắc vu Địa Chi dã ; tứ Tân mão giả, phản khắc Địa Chi dã. Tất tu Địa Chi chi khí thượng thăng, Thiên Can chi khí hạ hàng, tắc lưu thông sanh hóa, nhi bất chí vu thiên khô, hựu đắc tuế vận an đốn, phi phú diệc Quý hĩ. Như vô thăng hàng chi tình, phản hữu trùng khắc chi thế, giai vi thiên khô nhi bần tiện hĩ. Nghi tế cứu chi.
-  Nhâm Thị viết:
Thiên toàn nhất khí, chính là nói đến Thiên can tứ Giáp, tứ Ất, tứ Bính, tứ Đinh, tứ Mậu, tứ Kỷ, tứ Canh, tứ Tân, tứ Nhâm, tứ Quý. Địa Chi bất tái, chính là Địa chi và Thiên Can không sanh hóa nhau vậy. Không những tứ Giáp tứ Ất mà ngộ thân dậu dần mão là bất tái, tức bị Địa chi toàn khắc, hoặc khắc ngược Địa chi, hoặc Thiên Can không đoái hoài Địa Chi, hoặc Địa Chi không để ý Thiên Can, đều là bất tái cả. Như tứ Ất dậu, bị Địa chi khắc; hay tứ Tân mão, lại là khắc Địa chi vậy. Khí Địa chi nhất thiết phải bay (tác động) lên cao, khí Thiên can (tác động) giảm xuống, thời lưu thông sanh hóa, để không đến nổi thiên khô (mất cân bằng), lại đắc tuế vận ổn thỏa, hợp lý, không phú thì cũng quý. Ví như chẳng có cái tình lên xuống ấy, mà ngược lại chỉ có cái thế xung khắc nhau, đều là thiên khô mà bần tiện thôi. Nên xét đến cùng sự tinh tế là thế.
Giáp thân  , Giáp tuất  , Giáp dần  , Giáp tuất
Ất hợi - Bính Tý - Đinh sửu - Mậu dần - Kỷ mão - Canh Thìn
Niên chi thân kim, trùng khứ nhật chủ dần mộc, gia dĩ tuất thổ thừa quyền trọng kiến, sanh kim trợ sát, vị Địa Chi bất cố Thiên Can. Phu tứ Giáp nhất dần, tự hồ cường vượng, đệ thu mộc hưu tù, trùng khứ lộc thần, kỳ căn dĩ bạt, bất tác vượng luận. Cố dần mão hợi tử vận trung, y thực pha phong, nhất giao Canh Thìn, sát chi nguyên thần thấu xuất. Tứ tử câu thương, phá gia bất lộc. Can đa bất như chi trọng, lý cố nhiên dã.
Chi năm thân kim, đến xung Nhật chủ dần mộc, hơn nữa thấy cả tuất thổ cường vượng thừa dịp sinh kim trợ Sát, nói Địa Chi không để ý đến Thiên Can, thử nói đến tứ Giáp cư dần, tựa hồ đều cường vượng, nhưng ở mùa thu thì mộc hưu tù, đến xung Lộc thần, cái gốc ấy tất phải bật rễ, không thể luận là vượng. Cho nên ở vận dần mão hợi tý, áo cơm có phần hậu hỹ thịnh vượng, giao vận Canh Thìn, nguyên thần Sát lộ ra. Tứ Giáp đều bị thương, tan nhà thất lộc (chết). Can nhiều chẳng bằng Chi trọng, cái lý ấy hiển nhiên rồi.
Mậu Tý  , Mậu ngọ  , Mậu tuất  , Mậu ngọ
Kỷ mùi - Canh thân - Tân dậu - Nhâm tuất - Quý hợi Giáp Tý
Thử mãn cục hỏa thổ, tử suy ngọ vượng, trùng tắc ngọ phát nhi dũ liệt, ngao Can tích thủy, thị vị Thiên Can bất phúc. Sơ giao dĩ vị, cô khổ vạn trạng ; chí canh thân Tân dậu vận, dẫn thông Mậu thổ chi tính, đại đắc tế ngộ, thú thê sanh tử, lập nghiệp thành gia ; nhất giao Nhâm tuất, thủy bất thông căn, ám củng hỏa cục, tao chúc dung chi biến, nhất gia ngũ khẩu giai vong. Như Thiên Can thấu nhất Canh Tân, hoặc Địa Chi tàng nhất thân dậu, khởi chí nhược thị chi kết cục hồ?
Tứ trụ này hỏa thổ đầy đủ, tý suy ngọ vượng, bị xung thời ngọ phát hỏa mãnh liệt rang khô Can như nung ngói, nên nói rằng Thiên Can chẳng được phúc. Bắt đầu vào vận Kỷ Mùi, cô khổ trăm điều; tới vận Canh thân Tân dậu, dẫn thông Mậu thổ, gặp được vận hội lớn, lấy vợ sanh con, lập nghiệp thành gia; vào vận Nhâm tuất, thủy không thông gốc, ngầm củng hỏa cục, gặp biến cố tan tác, một nhà 5 khẩu đều mất. Như Thiên Can thấu xuất một Canh Tân, hoặc Địa Chi tàng một thân dậu, thì sao có kết cục thảm thương như vậy được?
Mậu thân  ,  Mậu ngọ  ,  Mậu tuất ,  Mậu ngọ
Kỷ mùi - Canh thân - Tân dậu - Nhâm tuất - Quý hợi - Giáp tý
Thử dữ tiền tạo chích hoán nhất Thân tự, nhi Thiên Can chi khí hạ hàng, Địa chi chi thủy hữu nguyên, ngọ hỏa tuy liệt, cứu bất năng thương Thân kim, dụng kim minh hĩ, huống hữu tử thủy vi khứ bệnh chi hỉ thần. Giao thân vận, Mậu Thìn niên tứ nguyệt nhập học, cửu nguyệt đăng khoa, cái đắc thái tuế thần tự, ám hội thủy cục chi diệu. Tích tương lai Nhâm tuất vận trung, Thiên Can quần bỉ tranh tài, Địa Chi ám hội hỏa cục, vị kiến kỳ cát hĩ.
Tứ trụ này và tứ trụ trước chỉ hoán đổi một chữ Thân,  khí Thiên can tác động giảm xuống (Mậu thổ sinh thân kim), thủy trong Địa chi có nguồn (Nhâm tàng trong chi Thân), ngọ hỏa tuy mãnh liệt, xét cho cùng cũng không thể tổn thương thân kim, dụng kim sáng suốt vậy, huống hồ có con là thủy hỉ thần chữa bệnh. Vào vận thân, tháng 4 năm Mậu thìn nhập học, tháng 9 đăng khoa, chính do đắc một chữ Thìn là Thái tuế, khéo ở chổ ám hội thủy cục. Tiếc rằng ở vận tương lai Nhâm tuất, các Thiên can (Mậu) Tỉ đoạt Tài (Nhâm), Địa chi ám hội hỏa cục, chẳng thấy đâu điềm cát lành.
Tân mão  , Tân mão ,  Tân mão  , Tân mão
Canh Dần - Kỷ sửu - Mậu Tý - Đinh hợi - Bính tuất - Kỷ dậu
Thử tạo tứ mộc đương quyền, tứ kim lâm Tuyệt, tuy viết phản khắc Địa chi, thật vô lực khắc dã. Như quả năng khắc, khả dụng Tài hĩ, nhược năng dụng Tài, khởi vô thành lập hồ? Bỉ thử mẫu phúc, sổ niên gian phụ mẫu giai vong, dữ đạo sĩ vi đồ ; Kỷ sửu Mậu Tý vận, ấn thụ sanh phù, y thực vô khuy ; nhất giao Đinh hợi, sanh hỏa khắc kim, tức vong kỳ sư, sở hữu vi nghiệp, phiêu đổ tảo tẫn nhi tử.
Tứ trụ này tứ mão mộc đương quyền, tứ Tân kim lâm vị trí Tuyệt, tuy rằng phản khắc Địa chi, thật ra chẳng có lực để khắc, nếu mà có thể khắc, có thể dụng được Tài rồi, nếu có thể dụng tài, há chẳng trụ vững được ư? Được mẹ đùm bọc, được khoảng vài ba năm cha mẹ đều mất, rồi làm đồ đệ một đạo sĩ; vận Kỷ sửu Mậu Tý, Ấn thụ sanh phù, áo cơm chẳng thiếu; giao vận Đinh hợi, sanh hỏa khắc kim, thầy chết ngay, vì thế mới gây nghiệp chướng, cờ bạc đến khánh tận mà chết.
Địa toàn tam vật, bất khả sử Thiên đạo mạc chi dung.
(Địa chi cùng hội về một hành, chẳng lẽ không thể dung nạp cái đạo Thiên can.)
-  Nguyên chú: Dần mão thìn, hợi mão mùi nhi ngộ Giáp Canh Ất Tân, tắc Thiên bất phúc. Nhiên bất đặc toàn nhất khí dữ tam vật giả, giai nghi Thiên phúc Địa tải, bất luận hữu căn vô căn, giai yếu “tuần kỳ khí tự”, Can Chi bất phản bội vi diệu .
+ “toàn nhất khí” : 4 can tứ trụ cùng 1 chữ
+ “toàn tam vật” : 3 chi cùng hội/hóa thành một hành
+ “đề cương” : thường chỉ lệnh tháng hoặc hành nắm lệnh trong tứ trụ.
-  Nguyên chú: Dần mão thìn, hợi mão mùi mà ngộ Giáp Canh Ất Tân, thời Thiên can chẳng được phúc. Vậy không chỉ “toàn nhất khí” mà cả “tam vật”, đều cần “Thiên phúc Địa tải”, bất luận có gốc hay không gốc, đều cần “noi theo thứ tự của thần khí đó”, cái khéo là Can Chi không phản bội nhau.
-  Nhâm thị viết: Địa Chi tam vật giả, chi đắc dần mão thìn, tị ngọ mùi, thân dậu tuất, hợi tý sửu chi phương thị dã. Như dần mão thìn nhật chủ thị mộc, yếu Thiên can hỏa đa ; Nhật chủ thị hỏa, yếu Thiên can kim vượng ; Nhật chủ thị kim, yếu Thiên can thổ trọng. Đại phàm Chi toàn tam vật, kỳ thế vượng thịnh. Như vượng thần tại đề cương, Thiên can tất tu thuận kỳ khí thế, tiết chi khả dã ; như vượng thần tại biệt chi, Thiên can chế chi hữu lực, chế chi khả dã. Hà dĩ vượng thần tại đề cương, chích nghi tiết nhi bất nghi chế? Phu vượng thần tại đề cương giả, tất chế thần chi tuyệt địa dã, như cường chế chi, bất đắc kỳ tính, dụng kích nhi tứ sính hĩ. Vượng thần giả, mộc phương đề cương đắc dần mão dã thị dã ; chế thần giả, Canh Tân kim dã, dần mão nãi Canh Tân chi tuyệt địa dã. Như thần tại đề cương, tứ trụ Can chi hựu hữu Canh Tân chi trợ, phương khả chế hĩ. Sở vị tuần kỳ khí tự, điều tề đắc nghi, tư vi toàn mỹ. Mộc phương như thử, dư khả loại thôi.
-  Nhâm Thị viết: Địa Chi tam vật, chính là các chi trong tứ trụ hội về một phương như dần mão thìn, tị ngọ mùi, thân dậu tuất, hợi tý sửu. Như dần mão thìn mà Nhật chủ là mộc, quan trọng Thiên can nhiều hỏa; Nhật chủ là hỏa, cần Thiên can kim vượng; Nhật chủ là kim, lại cần Thiên can thổ trọng. Địa chi “toàn tam vật”, hầu hết cái thế của nó thịnh vượng. Như ở đề cương , vượng thần khí nào thì Thiên can phải thuận theo cái khí thế ấy, thời như thế có thể tiết được; hay như thần khí vượng tại một Địa chi khác, Thiên can chế Chi mà hữu lực, thời có thể chế được vậy. Tại sao thần khí vượng ở đề cương, chỉ nên tiết mà không nên chế? Ấy bởi khi thần khí vượng tại đề cương, chế thần khí ắt hẳn chỉ dẫn đến tuyệt địa, như là cưỡng chế mà thôi, chẳng đắc dùng được cái thần khí vượng ấy, chỉ là dùng kích động để cho sướng mà thôi. Thần khí vượng, như đề cương phương mộc mà đắc dần mão cũng là thần khí vượng vậy; thì khi đó cái gọi là chế thần, chính là Canh Tân kim vậy, vì dần mão chính là tuyệt địa của Canh Tân. Hay như khí Địa chi Thìn tại đề cương, tứ trụ can chi lại có Canh Tân trợ giúp thì mới có thể chế được vậy. Gọi là “noi theo thứ tự của thần khí đó” (tuần kỳ khí tự), chính là điều hòa cái nào cần nên, cái nào cần đắc, được như thế thì toàn mỹ. Mộc phương luận như thế, các phương còn lại cũng luận tương tự.
Tân mão  Canh Dần  Giáp Thìn  Bính dần
Kỷ sửu - Mậu Tý - Đinh hợi - Bính tuất - Ất dậu - Giáp thân
Thử dần mão thìn đông phương, kiêm chi dần thì, vượng chi cực hĩ. Niên nguyệt lưỡng kim lâm tuyệt, vượng thần tại đề cương, hưu kim nan khắc, nhi thả Bính hỏa thấu thì, mộc hỏa đồng tâm, vị cường chúng nhi địch quả, thế tại khứ Canh Tân chi quả. Tảo hành thổ vận sanh kim, phá háo dị thường, tiến kinh nhập bộ bạn sự ; chí Bính tuất vận, phân phát quảng đông, đắc quân công, thăng tri huyện, hỉ kỳ khắc tẫn Canh Tân chi mỹ ; chí dậu, Canh Tân đắc địa, bất lộc nghi hĩ.
Tứ trụ này dần mão thìn phương đông hội mộc, kiêm được giờ dần mộc, nên rất vượng. Trụ năm tháng lưỡng kim đều lâm vị trí Tuyệt, thần khí vượng ở đề cương thì kim yếu khó mà khắc được, hơn nữa Bính hỏa thấu lộ ở trụ giờ, nên mộc hỏa đều đồng lòng, gọi là lấy số đông-mạnh mà chống lại số ít, uy thế này đến áp chế Canh Tân chính là thiểu số. Hành vận sớm gặp thổ sanh kim, phá hao dị thường, đến kinh thành vào làm việc trong Bộ (một cơ quan hành chính thời xưa, như Bộ Binh, Bộ Lễ, Bộ Hộ,…); tới vận Bính tuất, được phái đi Quảng Đông, được quân công, thăng chức Tri huyện, vận hỉ chính là do gặp được Canh Tân bị khắc tận cùng; tới vận dậu, Canh Tân đắc địa, nên bất lộc (chết) vậy.
Canh dần , Canh thìn ,  Giáp dần , Đinh mão
Tân tị - Nhâm ngọ - Quý mùi - Giáp thân - Ất dậu - Bính tuất
Thử diệc dần, mão, thìn đông phương. Vượng thần bất thị đề cương, thìn thổ quy viên, canh kim đắc tái, lực lượng túc dĩ khắc mộc, Đinh hỏa tuy thấu, phi canh kim chi địch, dụng sát minh hĩ. Chí Giáp thân vận, canh kim lộc vượng ám xung dần mộc, khoa Giáp liên đăng, sĩ chí quận thủ ; nhất giao Bính vận chế sát, giáng chức quy điền.
Tứ trụ này cũng là dần, mão, thìn phương đông; thần khí vượng không phải đề cương, thìn thổ quy viên, Canh kim được nâng đỡ, lực lượng đủ để khắc mộc, Đinh hỏa tuy thấu lộ, nhưng chẳng đối địch Canh kim, lấy Sát làm dụng là sáng suốt. Tới vận Giáp thân, Canh kim Lộc vượng ám xung dần mộc, khoa giáp liên tục tấn tới, làm quan đứng đầu một quận (Tri phủ); đến vận Bính chế Sát, bị giáng chức về hưu.
Dương thừa dương vị dương khí xương , tối yếu hành 
trình an đốn
 .
Nguyên chú : lục dương chi vị , độc tý , dần , thìn vi
dương phương , vi dương vị chi thuần . Ngũ dương cư chi
, như nhược thị vượng thần , tối yếu hành vận âm thuận
an đốn chi địa .
Nhiệm thị viết : lục dương giai dương , phi tý , dần ,
thìn dương chi thuần dã , tu phân dương hàn dương noãn
nhi luận dã . Tây bắc vi hàn , đông nam vi noãn , như
nhược thân , tuất , tý toàn , vi tây bắc chi dương hàn ,
tối yếu hành vận ngộ mão , tị , mùi đông nam chi âm noãn
thị dã ; như dần , thìn , ngọ toàn , vi đông nam chi
dương noãn , tối yếu hành vận dậu hợi sửu tây bắc chi âm
hàn thị dã . Thử cử đại cục nhi luận , nhược ngộ nhật
chủ chi dụng thần hỉ thần , hoặc mộc , hoặc hỏa , hoặc
thổ , thị đông nam chi dương noãn , tuế vận diệc nghi
phối tây bắc chi âm thủy , âm mộc , âm hỏa , phương năng
sanh trợ hỉ thần dụng thần , nhi hoan như thù tạc .
Nhược tuế vận ngộ tây bắc chi dương thủy , dương mộc ,
dương hỏa , tắc vi cô dương bất sanh , túng sử sanh trợ
hỉ thần , diệc nan thiết đương , bất quá miễn khi khu
nhi xu bình thản dã . Dương noãn chi cục như thử , dương
hàn chi cục diệc như thử luận , sở vị " dương thịnh
quang xương cương kiện chi thế , tu phối dĩ âm thịnh bao
hàm nhu thuận chi địa " thị dã . Nhược bất thâm tâm xác
cứu , thục năng tham kỳ tinh vi , nhi đắc kỳ yếu quyết
hồ ?
Quý tị   Bính thìn   Bính ngọ   Canh dần
Ất mão   Giáp dần   Quý sửu   Nhâm tý   Tân hợi
Thử đông nam chi dương noãn . Thiên can kim thủy , tự hồ
vô căn , hỉ nguyệt chi thìn thổ , tiết hỏa súc thủy nhi
sanh kim , canh kim quải giác phùng sanh , tắc canh kim
khả dụng . Quý thủy tức canh kim chi hỉ thần . Sơ vận ất
mão giáp dần , kim tuyệt hỏa sanh nhi thủy tiết , cô khổ
bất kham ; nhất giao quý sửu bắc phương âm thấp chi địa
, kim thủy thông căn , hựu đắc tị sửu củng kim chi diệu
, xuất ngoại đại đắc tế ngộ , sậu nhiên phát tài thập dư
vạn . Dương noãn phùng hàn , phối hiệp chi mỹ dã .
Mậu dần   Ất sửu   Bính dần   Canh dần
Bính dần   Đinh mão   Mậu thìn   Kỷ tị   Canh ngọ
Bính dần nhật nguyên , tuy chi ngộ tam dần , tối hỉ sửu
thổ thừa quyền , tài tinh quy khố . Nhược vận tẩu tây
bắc thổ kim , tài nghiệp tất thắng tiền tạo , tích nhất
lộ đông nam mộc hỏa chi địa , tổ nghiệp phá tận , biến
lịch sổ tỉnh , bôn trì bất ngộ , chí ngọ vận ám hội kiếp
cục , tử vu quảng đông . Nhất sự vô thành , mạc phi vận
dã .
Dương ở vị trí dương, rất cần được vận trình sửa 
chữa
 
Nguyên chú : Trong 6 (chi) dương , chỉ có tý , dần , 
thìn là phương dương, thuần dương   . 5 (can) dương 
đóng ở đó , nếu là vượng thần (thì) rất cần gặp vận âm 
thuận (để) sửa chữa. 
Họ Nhậm nói rằng: 6 (chi dương) đều dương, (khi) không 
phải tý, dần, thìn là thuần dương, thì phải phân ra làm 
dương lạnh, dương ấm mà luận vậy. Tây bắc là lạnh, đông 
nam là ấm. Nếu thân, tuất, tý đầy đủ (trong trụ), là tây 
bắc dương lạnh, rất cần đi vận đông nam mùi, tỵ, mão âm 
(chi) ấm áp vậy. dần, thìn, ngọ đầy đủ, thì là đông nam 
dương ấm, lại rất cần đi vận dậu, hợi, sửu tây bắc âm 
lạnh vậy. Điều này là đem đại cục (toàn bộ trụ) mà luận. 
Khi dụng, hỉ thần của nhật chủ là mộc, hỏa, thổ - dương 
ấm đông nam, tuế vận lại cũng nên phối hợp với tây bắc 
âm thủy, âm môc, âm hỏa, thì mới có thể sinh trợ dụng, 
hỉ thần, mà vui vẻ như chủ khách thân tình. Nếu tuế vận 
gặp tây bắc dương thủy, dương mộc, dương hỏa, tất là 
dương cô độc không thể sinh trưởng được. (Dù) muốn sinh 
trợ cho hỉ thần, thì cũng khó đảm đương, chẳng qua cũng 
chỉ tránh được (vận) trắc trở (để hưởng vận) yên ổn mà 
thôi. (Mệnh cục) dương ấm luận như thế, (mệnh cục) dương 
hàn cũng luận như vậy. Đó là “thanh thế dương thịnh sáng 
sủa tốt đẹp khỏe mạnh, thì nên phối hợp với đất âm thịnh 
bao dung nhu thuận” vậy. 
Quý tị   Bính thìn   Bính ngọ   Canh dần 
Ất mão   Giáp dần   Quý sửu   Nhâm tý   Tân hợi 
Đây là (mệnh) dương ấm đông nam, thiên can kim thủy tựa 
hồ như không có căn, mừng là nguyệt chi thìn thổ, tiết 
bớt hỏa, chứa đựng thủy mà sinh kim. Canh kim (quải 
giác?) được sinh, tất canh kim có thể làm dụng thần. Quý 
thủy là hỷ thần. Vận đầu ất mão, giáp dần, kim (bị) 
tuyệt, hỏa (được) sinh, mà thủy (bị) tiết khí, cô đơn, 
khổ cực không chịu được. Một khi giao vận quý sửu là nơi 
đất âm phương bắc ẩm ướt, kim thủy (được) thông căn, lại 
kỳ diệu là tỵ, sửu (giúp) củng cố kim. Xuất ngoại gặp 
được cơ hội lớn, bỗng nhiên phát tài hơn 10 vạn. Dương 
ấm gặp lạnh, phối hợp đẹp đẽ vậy. 
Mậu dần   Ất sửu   Bính dần   Canh dần 
Bính dần   Đinh mão   Mậu thìn   Kỷ tị   Canh ngọ 
Nhật chủ bính dần tuy gặp 3 dần, nhưng rất mừng là sửu 
thổ nắm quyền, tài nhập kho. Ví như hành vận tây bắc thổ 
kim, thì sẽ giàu hơn mệnh trước. Tiếc lại đi đường (vận) 
đông nam hỏa mộc, phá sạch cơ nghiệp ông cha, lang thang 
khắp mấy tỉnh mà không gặp cơ hội. Đến vận ngọ hợp thành 
cục kiếp tài, chết ở Quảng đông. Sự không thành, chính 
do vận gây lên vậy. 
Dương thừa dương vị dương khí xương , tối yếu hành trình an đốn
(Dương can vì cư vị trí dương nên dương khí thịnh, rất cần được vận trình điều hòa. )
Nguyên chú: lục dương chi vị, độc tý, dần, thìn vi dương phương, vi dương vị chi thuần. Ngũ dương cư chi, như nhược thị vượng thần, tối yếu hành vận âm thuận an đốn chi địa. 
-  Nguyên chú: Trong 6 vị trí dương , chỉ có tý , dần , thìn là phương dương, là vị trí thuần dương, 5 (can) dương đóng ở đó , nếu là vượng thần (thì) rất cần gặp vận đến đất âm thuận (để) điều hòa.
-  Nhâm thị viết: lục dương giai dương , phi tý, dần, thìn dương chi thuần dã, tu phân dương hàn dương noãn nhi luận dã. Tây bắc vi hàn, Đông nam vi noãn, như nhược thân, tuất, tý toàn, vi Tây bắc chi dương hàn, tối yếu hành vận ngộ mão, tị, mùi Đông nam chi âm noãn thị dã; như dần, thìn, ngọ toàn, vi Đông nam chi dương noãn, tối yếu hành vận dậu hợi sửu tây bắc chi âm hàn thị dã.
Nhậm nói rằng: 6 chi dương đều dương, tý, dần, thìn chẳng phải thuần dương, mà cần phải phân ra làm dương lạnh, dương ấm để luận. Tây bắc lạnh, Đông nam ấm. Nếu thân, tuất, tý đầy đủ (trong trụ), là Tây bắc dương lạnh, rất cần đi gặp vận mùi, tị, mão Đông nam âm ấm vậy. Như dần, thìn, ngọ đầy đủ, là Đông nam dương ấm, lại rất cần đi vận dậu, hợi, sửu Tây bắc âm lạnh vậy.
Thử cử đại cục nhi luận, nhược ngộ nhật chủ chi dụng thần hỉ thần, hoặc mộc, hoặc hỏa, hoặc thổ, thị đông nam chi dương noãn, tuế vận diệc nghi phối tây bắc chi âm thủy, âm mộc, âm hỏa, phương năng sanh trợ hỉ thần dụng thần, nhi hoan như thù tạc. Nhược tuế vận ngộ Tây bắc chi dương thủy, dương mộc, dương hỏa, tắc vi cô dương bất sanh , túng sử sanh trợ hỉ thần, diệc nan thiết đương, bất quá miễn khi khu nhi xu bình thản dã. Dương noãn chi cục như thử , dương hàn chi cục diệc như thử luận, sở vị "Dương thịnh quang xương cương kiện chi thế, tu phối dĩ âm thịnh bao hàm nhu thuận chi địa" thị dã . Nhược bất thâm tâm xác cứu , thục năng tham kỳ tinh vi , nhi đắc kỳ yếu quyết hồ ?
Điều này cứ lấy đại cục mà luận, như gặp hỉ, dụng thần của nhật chủ: hoặc là mộc, hoặc hỏa, hoặc thổ, thời là Đông nam dương ấm, tuế vận lại cũng nên phối hợp với Tây bắc âm thủy, âm mộc, âm hỏa, thì mới có thể sinh trợ dụng, hỉ thần, mà vui vẻ như chủ khách thân tình. Nếu tuế vận gặp Tây bắc dương thủy, dương mộc, dương hỏa, tất là dương cô độc không thể sinh trợ được. Dù muốn sinh trợ cho hỉ thần, cũng khó thiết tha gánh vác, bất quá chỉ như bỏ đường núi gập ghềnh mà  theo đường bằng phẳng mà thôi. Cách cục dương ấm luận như thế, cách cục dương hàn cũng như thế mà luận. Đó gọi là “Gặp thế dương thịnh sáng sủa tốt đẹp khỏe mạnh, thì nên phối hợp với đất âm thịnh hàm chứa nhu thuận” !. Như chẳng bỏ thâm tâm minh xét đến cùng, thì sao tìm ra cái tinh vi, để mà đắc yếu quyết đây ?
Quý tị   Bính thìn   Bính ngọ   Canh dần 
Ất mão -  Giáp dần -  Quý sửu -  Nhâm tý  - Tân hợi
Thử Đông nam chi dương noãn. Thiên can kim thủy, tự hồ vô căn, hỉ nguyệt chi thìn thổ , tiết hỏa súc thủy nhi sanh kim , Canh kim quải giác phùng sanh, tắc Canh kim khả dụng. Quý thủy tức canh kim chi hỉ thần. Sơ vận Ất mão Giáp dần, kim tuyệt hỏa sanh nhi thủy tiết, cô khổ bất kham; nhất giao Quý sửu bắc phương âm thấp chi địa, kim thủy thông căn, hựu đắc tị sửu củng kim chi diệu, xuất ngoại đại đắc tế ngộ, sậu nhiên phát tài thập dư vạn. Dương noãn phùng hàn, phối hiệp chi mỹ dã. 
Đây là tứ trụ dương ấm đông nam, Thiên can kim thủy tựa hồ như không có gốc (căn), mừng là nguyệt chi thìn thổ, tiết bớt hỏa, chứa đựng thủy (Thìn tàng Quý thủy) mà sinh kim. Canh kim như bị treo dồn vào góc mà nay được sinh trợ, tất Canh kim có thể làm dụng, Quý thủy tức hỷ thần của Canh kim. Hai vận đầu Ất mão, Giáp dần, kim bị tuyệt (Canh tuyệt ở dần), hỏa được sinh (hỏa sinh từ mộc: Giáp Ất, dần mão), mà thủy bị tiết khí, cô đơn, khổ cực không chịu được. Giao vận Quý sửu là nơi âm phương bắc ẩm ướt, kim thủy thông gốc, lại hay ở chổ 2 chi tị, sửu hợp củng kim, xuất ngoại gặp được vận hội lớn, bỗng nhiên phát tài hơn 10 vạn. Dương ấm gặp lạnh, phối hợp đẹp đẽ vậy. 
Mậu dần   Ất sửu   Bính dần   Canh dần
Bính dần -  Đinh mão  -  ; Mậu thìn  - Kỷ tị  - Canh ngọ
Bính dần nhật nguyên , tuy chi ngộ tam dần , tối hỉ sửu thổ thừa quyền, tài tinh quy khố. Nhược vận tẩu Tây bắc thổ kim , tài nghiệp tất thắng tiền tạo, tích nhất lộ Đông nam mộc hỏa chi địa, tổ nghiệp phá tận, biến lịch sổ tỉnh, bôn trì bất ngộ , chí ngọ vận ám hội kiếp cục , tử vu Quảng đông . Nhất sự vô thành , mạc phi vận dã.
Nhật nguyên Bính dần, tuy gặp 3 dần, nhưng rất mừng là sửu thổ nắm quyền, Tài nhập mộ khố. Nếu như hành vận Tây bắc thổ kim, thì tiền tài sẽ giàu hơn tứ trụ trước. Tiếc rằng đi đường Đông nam hỏa mộc, phá sạch cơ nghiệp ông cha, lang thang khắp mấy tỉnh mà không gặp cơ hội. Đến vận ngọ hợp thành Tỉ Kiếp, chết ở Quảng Đông. Một việc cũng chẳng thành, chẳng nhẽ không phải do vận gây nên ư.
阳乘阴位气盛,$ 824;须道路光亨。 
原注:六阴之位A 292;独酉亥丑为阴方 ,乃阴位之纯。 116;阴居之,如若是 旺神,最 
要行运阳顺光亨 043;地。 
任氏曰:六阴皆& 452;,非酉、亥、丑 为阴之盛也,须 998;阴寒阴暖而论也 承上文 
西北为寒,东南 026;暖,假如酉、亥 、丑全,为西北 043;阴寒,最要行运 遇东南 
寅、辰、午之阳 262;是也。如卯、巳 、未全,为东南 043;阴暖,最要行运 遇申、 
戌、子西北之阳 506;是也。此举大局 而论,若日主之 992;神喜神,或金, 或水,或 
土,是西北之阴 506;,岁运亦宜配东 南之阳金、阳火
 289;
阳土,方能助用 神喜神, 

而福力弥增。若 681;运遇东南之阴金 、阴火、阴土, 017;为纯阴不育,难 获厚福, 
不过和平而无灾 646;也。阴寒之局如 此论,阴暖之局 134;如此论,所谓 ;盛包含柔 
顺之气,须配以& 451;盛光昌刚健之地者是也。 
丙子 
己亥 
乙酉 
壬午      6; 
辛丑 
壬寅 
癸卯 
甲辰 
己巳 
此全酉、亥、子# 199;北之阴寒。寒木 更宜向阳,以丙 779;为用,壬水即其 病也。然 
喜壬水远隔,与 085;主紧贴,日主本 衰,未尝不喜其 983;,又有己土透干 ,亦能砥 
定中流。且喜天 178;水木火土,各立 门户,相生有情A 307;地支午火紧制七 杀,年月 
火土,通根禄旺
 290;
更喜行运东南阳 暖之地,不但四 609;有情,而且行运 光亨,早 

年联登甲第,仕! 267;封疆,皆阴阳配 合之妙也。 

己亥 
丙子 
乙丑 
壬午     ߝ 3; 
甲戌 
癸酉 
壬申 
辛未 
庚午 
此与前只换一酉 376;。以俗论之,酉 换丑更美,酉乃 971;杀克我,丑乃偏 财我克, 
又能止水,何其 937;也。不知丑乃湿 土,能泄火不能 490;水,酉虽七杀, 午火紧 
克,不泄火之元­ 070;;彼则丙火在年 ,壬水遥远,又 471;己土一隔,此则 丙火在 
月,壬水相近, 050;土不能为力,子 水又逼近相冲。 780;且运走西北阴寒 之地,丙 
火一无生扶,乙 408;何能发生?十干 体象去:虚湿之[1] 2320;,骑马亦忧 1;言不谬 
也。所以屈志芸­ 383;,一贫如洗,克 妻无子,至壬申$ 816;,丙火克尽而亡 。所谓 
乘阴位阴气盛 2290; 
地生天者,天衰 597;冲。 
原注:如丙寅、 098;寅、丁酉、壬申 、癸卯、己酉,‑ 342;长生日主,甲子 、乙亥、 
丙寅、丁卯、己 051;,皆自生日主, 如主衰逢冲,则 681;拔而祸更甚。 
任氏曰:地生天 773;,如甲子、丙寅 、丁卯、己巳、 098;午、壬申、癸酉 、乙亥、 
庚辰、辛丑是也
 290;
日主生于不得令 之月,柱中又少 110;扶,用其身印, 冲则根 

拔,生机绝 矣,为祸最重。! 509;日主得时当令, 或年时皆逢禄旺A 292;或天干比劫重 
叠,或官星衰弱A 292;反忌印绶之泄, 则不怕冲破矣。 635;之看日主之气势 ,旺相者 
喜冲,休囚者怕 914; 虽以日主而论, 681;运冲亦然。 
甲寅 
戊辰 
丙寅 
丙申      1; 
庚午 
辛未 
壬申 
癸酉 
甲戌 
此坐下印缓,生 110;季春,印气有余 ,又年逢甲寅, 017;太过矣。土虽当 令,而木 
更坚,喜其寅申$ 898;冲,财星得用, 第嫌比肩盖头, 914;之无力。早年运 走南方, 
起倒异常;至壬‑ 003;癸酉二十年,申 冲寅木,克去比 937;,创业兴家。此 谓乘印就 
财也。 


壬申 
甲辰 
丙寅 
丙申      1; 
丙午 
丁未 
戊申 
己酉 
庚戌 
此坐下印绶亦在 395;春,印绶未尝无 余气,年干壬杀 983;印有情,不足畏 也,所嫌 
者,两申冲寅,‑ 002;木之根拔。还喜 壬水泄金生木,$ 816;走丙午劫去申财 ,入学补 
廪登科;丁未合 435;壬水,三走春闱 不捷;戊申克去 764;水,三冲寅木而 死于途。 
此造之壬水,乃‑ 002;木之原神,断不 可伤,壬水受伤A 292;甲木必孤。凡独 杀用印 
者,最忌制杀也
Thiên hợp địa giả , địa vượng hỉ tĩnh 
.
Nguyên chú : như đinh hợi , mậu tý ,
giáp ngọ , kỷ hợi , tân tị , nhâm ngọ , quý tị chi loại
, giai chi trung nhân nguyên , dữ thiên can tương hợp
giả . Thử nãi tọa hạ tài quan chi địa , tài quan nhược
vượng , tắc nghi tĩnh bất nghi xung . Nhậm thị viết :
thập can chi hợp , nãi âm dương tương phối giả dã . Ngũ
dương hợp ngũ âm vi tài , ngũ âm hợp ngũ dương vi quan ,
sở dĩ tất hợp . Thượng hữu âm vượng bất tòng dương ,
dương vượng bất tòng âm , tuy hợp bất hóa , hữu tranh
hợp , đố hợp , phân hợp chi biệt . Nhược lộ can hợp chi
trung ám can , tắc tùy cục vô sở bất hợp , vô sở bất
phân tranh đố kị hĩ . Thử tiết bổn hữu chí lý , chỉ nhân
nguyên chú thiểu biến thông nhĩ . Thiên hợp địa tam tự ,
tu hoạt khán khinh khán , trọng tại hạ cú " địa vượng hỉ
tĩnh " tứ tự , phu địa vượng giả , thiên tất suy dã ; hỉ
tĩnh giả . Tứ chi vô xung khắc chi vật , hữu sinh trợ
chi thần dã . Thiên can suy nhi vô trợ , địa chi vượng
nhi hữu sinh , thiên can tâm hoài hãn hợp chi ý . Nhược
đắc địa chi nguyên thần thấu xuất , duyến thượng thiên
hạ địa , thăng hàng hữu tình , thử hợp tự tòng chi ý dã
, hợp tài tự tòng tài , hợp quan tự tùng quan , phi thập
can hợp hóa chi lý dã . Sở dĩ tĩnh tắc cư an , thượng
kham bảo thủ , động tắc lý nguy , nan dĩ chi trì . Nhiên
khả ngôn hợp giả , chỉ hữu mậu tý , tân tị , đinh hợi ,
nhâm ngọ tứ nhật nhĩ , nhược giáp ngọ nhật , tắc ngọ tất
tiên đinh nhi hậu kỷ , kỷ thổ khởi năng chuyên quyền nhi
hiệp giáp ? Kỷ hợi nhật , hợi tất tiên nhâm nhi hậu giáp
, giáp khởi năng xuất nhi hợp kỷ ? Quý tị nhật , tị tất
tiên bính nhi hậu mậu , mậu khởi năng việt quá nhi hợp
quý ? Thử tam nhật bất luận , chí vu thập can , ứng hợp
nhi hóa , tắc vi hóa cách , lánh hữu tác dụng , giải tại
hóa cách chương trung . Kỷ Tỵ Tân Mùi Nhâm Ngọ Ất Tỵ
Canh Ngọ Kỷ Tỵ Mậu Thìn Đinh Mão Bính Dần Ất Sửu Chi
loại nam phương , thừa quyền đương lệnh , địa vượng cực
hĩ ; hỏa viêm thổ táo , thúy kim nan tư thủy nguyên ,
thiên suy cực hĩ , cố nhật can chi tình , bất tại tân
kim , kỳ ý hướng tất tại ngọ trung đinh hỏa nhi hợp tòng
hĩ . Kỷ tị, mậu thìn vận , sanh kim tiết hỏa , hình hao
hữu chi ; đinh mão, bính dần , mộc hỏa tịnh vượng , khắc
tận tân kim , kinh doanh phát tài cự vạn . Kỷ Sửu Mậu Tý
Đinh Hợi Canh Tý Ất Hợi Giáp Tuất Quý Dậu Nhâm Thân Tân
Mùi Canh Ngọ Thử tạo chi loại bắc phương , địa vượng cực
hĩ ; thiên can hỏa hư , vô mộc sanh phù , hựu hữu thấp
thổ hối hỏa , thiên suy cực hĩ . Nhân giai luận kỳ sát
trọng thân khinh . Thủ hỏa bang thân địch sát . Mậu dần
tuế , kim tuyệt hỏa sanh , hựu hợp khứ hợi thủy , tất
hữu đại hung , quả tốt quý hạ . Thử địa chi quan tinh
thừa vượng , hựu loại quan phương , thiên can vô ấn , kỷ
thổ tiết bính , vị túc bang thân , thử vi thiên địa hợp
nhi tòng quan dã . Giáp tuất vận sanh hỏa khắc thủy ,
hình tang phá hao , gia nghiệp dĩ tận ; quý dậu, nhâm
thân khắc tận bính hỏa , trợ khởi tài quan , hoạch lợi
ngũ vạn ; vị vận bính tý niên tao hồi lộc , phá khứ nhị
vạn . Nhân giai thủ kỳ hỏa thổ bang thân , dĩ ngọ vị vận
vi mỹ , thù bất tri bỉ kiếp đoạt tài , phản trí đại hung
Dịch: 
Thiên (can) hợp Địa (chi), (nếu) Địa (chi) vượng (thì) 
ưa (yên) tĩnh . 
Nguyên chú : 
Dạng như: đinh hợi , mậu tý , giáp ngọ , kỷ hợi , tân tị 
, nhâm ngọ , quý tị... , Đều là Nhân nguyên tàng trong 
chi tương hợp với Thiên can. Đó là đóng ở đất Tài Quan, 
nếu Tài Quan vượng thì tất nên tĩnh mà không nên xung. 
Nhậm Thị nói rằng: 
Sự hợp của 10 Can, là Âm Dương phối hợp nhau vậy. 5 
Dương hợp với 5 Âm là (hợp) Tài, 5 Âm hợp 5 Dương là 
(hợp) Quan.(Như: Giáp (+) hợp Kỷ(-) thì Kỷ là Tài. Ất 
hợp Canh là hợp Quan). Như vậy tất là hợp. 
Lại có: Âm vượng không theo Dương, Dương vượng không 
theo Âm, tuy hợp mà không hóa. Còn có sự khác nhau giữa: 
Tranh hợp (chanh nhau), Đố hợp (gen gét), Phân hợp (phân 
ly). Nếu can lộ bên trên mà ám hợp với Can tàng trong 
chi, thì tùy theo cục (mệnh) mà (có những trường hợp) 
không thể không Hợp, hay không thể không Tranh, Phân, Đố 
kỵ vậy. Chương này đã rất chí lý, chỉ dựa vào nguyên 
chú mà biến (đổi cho) thông (xuốt) 1 tý chút vậy. 
"Thiên (can) hợp Địa (chi)", 3 chữ này chỉ nên xem xét 
một cách linh hoạt nhẹ nhàng thôi. Quan trọng là ở vế 
dưới (trong cái tít to bên trên) 4 chữ: "Địa (chi) vượng 
(thì) ưa (yên) tĩnh". (Trong câu này): "Địa vượng" thì 
tất Thiên (kan) suy vậy, "ưa tĩnh" là, 4 chi không có gì 
xung khắc, thì sẽ có (Nục)thần sinh trợ vậy. Thiên can 
suy mà không có trợ giúp, Địa chi vượng mà có sinh phù 
thì Thiên Can trong lòng có ý hợp (với chi, tất nhiên!). 
Nếu được nguyên thần của Địa chi thấu lộ ra (Tức là can 
tàng trong chi đó thấu lên trên), thì là cơ duyên giời 
đất lên xuống hữu tình vậy. Hợp này giống như là hợp ý 
vậy. Hợp Tài tựa như theo Tài, hợp Quan như theo Quan, 
không phải là cái lý hợp hóa của 10 Can vậy! Thế nên 
tĩnh thì sẽ an cư, lại còn giữ được (nâu bền). Động tất 
là nguy hiểm, khó có thể duy trì. Hiển nhiên có thể nói 
rằng Hợp thì chỉ có mậu tý , tân tị , đinh hợi , nhâm 
ngọ 4 ngày này thôi. Nếu là ngày Giáp Ngọ, thì tất là 
Đinh trước Ngọ sau (ý lói nà thứ tự tàng chong tri ớ!), 
Kỷ thổ sao có thể vượt quyền (qua mặt Đinh) mà hợp Giáp 
được? Ngày Kỷ Hợi, Nhâm trước Giáp sau, Giáp sao có thể 
(thò) ra mà hợp Kỷ được? Ngày Quý Tỵ, Bính trước Mậu 
sau, Mậu sao dám vượt qua mà hợp Quý? 3 ngày này khỏi 
luận. Đến như 10 Can ứng hợp mà hóa, tất sẽ thành hóa 
cách, có tác dụng riêng khác, (được) bình giải tại 
chương Hóa Cách. 
Kỷ Tỵ Tân Mùi Nhâm Ngọ Ất Tỵ 
Canh Ngọ Kỷ Tỵ Mậu Thìn Đinh Mão Bính Dần Ất Sửu 
Địa chi thuộc phương Nam, nắm quyền , cực vượng. Nên 
tình ý của Nhật chủ, không ở Tân kim, mà tất sẽ hướng về 
Đinh hỏa trong Ngọ để hợp theo. Vận Kỷ Tỵ, Mậu Thìn, 
sinh kim, tiết khí hỏa, hình khắc hao tán. Đến vận Đinh 
mão, Bính Dần, mộc hỏa đều vượng, khắc hết tiệt Tân kim, 
phát tài to lắm ý! (>1000000) 
Kỷ Sửu   Mậu Tý   Đinh Hợi   Canh Tý 
Ất Hợi Giáp Tuất Quý Dậu Nhâm Thân Tân Mùi Canh Ngọ 
Mệnh này chi thuộc phương Bắc, Can hỏa hư nhược, không 
có mộc sinh phù lại còn bị thổ ẩm làm mờ đi, Can suy 
cùng cực vậy! Mọi người đều luận là Sát nhều thân nhược, 
lấy hỏa giúp thân để chiến lại Sát. Năm Mậu Dần, kim 
tuyệt, hỏa sinh, lại hợp mất Hợi thủy, tất có họa nhớn, 
rốt cục chỉ hợp với vận hỏa mùa hạ.    
Mệnh này địa chi quan tinh vượng, lại hội thành quan 
phương (Bắc thủy). Thiên can không có ấn, Kỷ thổ lại 
tiết khí Bính,không đủ để giúp đỡ, đó là Thiên Địa hợp 
mà theo Quan vậy (thành cách Tòng Kuan). Giáp Tuất vận 
sinh hỏa khắc thủy, hình (khắc), tang (tóc,) phá (fách), 
hao (tán) hết sạch cơ nghiệp nhà cửa. Đến vận Quý Dậu, 
Nhâm Thân khắc hết tiệt Bính hỏa, trợ giúp Quan tinh, 
bỗng thu lợi được 3 vạn ( à quên 5 vạn!). Vận Mùi, năm 
Bính Tý, bị hỏa hoạn, cháy mất 2 vạn. Mọi người đều lấy 
hỏa thổ trợ thân, cho là vận Ngọ, Mùi là đẹp, mà không 
biết Tỷ Kiếp đoạt Tài, lại thành đại hung vây. (còn tiếp)


Không có nhận xét nào

Được tạo bởi Blogger.