Header Ads

TỬ BÌNH CHÂN THUYÊN (phần 3)

TỬ BÌNH CHÂN THUYÊN (phần 3)



TỔNG LUẬN VỀ LỤC THÂN: Lục thân gồm có Cha Mẹ, anh em, thê tài, con cháu, nguyên tắc sinh ra lục thân là lấy Nhật can làm chủ. Chánh Ấn là mẹ chính, Thiên Ất là mẹ kế (hoặc vợ lẽ của cha và ông nội), Thiên tài là cha, tức là phu tinh của mẹ, và cũng là vợ thứ. Chính tài là chánh thê. Thiên tài là thiếp và cũng là cha. Tỷ kiên là anh em, chị em. Thất sát là con trai, chính quan là con gái. (Dương là trai, âm là gái). Về mạng của đàn bà, cách lấy lục thân có khác đôi chút. Nữ mạng lấy quan tài làm phu tinh, thất sát là chồng kế (hoặc người tư tình). Thực thần là con trai, thương quan là con gái. Kinh có câu: Đàn ông lấy Khắc can làm em. Đàn bà lấy sinh can làm con và tôi tớ. Cột năm là nguồn gốc tổ tiên, cột tháng là cha mẹ, chú bác, anh em trong nhà. Cột ngày là bản thân và thê thiếp. Trường hợp lục thân bị khắc như thế nào? Ấn thụ gặp tài là khắc mẹ và bà nội, gặp Tỷ kiếp Dương nhận là khắc thê thiếp và cha. Nhiều quan sát, khó nhờ cậy anh em, nhiều thương quan thực thần, khó nhờ con cái, đảo ấn hại cháu, khắc bà nội... Xét về hợp, chính ấn gặp tác hợp thành bất chánh. Tài gặp tác hợp thì thê bất chánh. Quan gặp tác hợp thì con gái bất chánh. Tỷ kiên tác hợp thời chị em gái bất chánh. Thương quan tác hợp thời tổ mẫu bất chánh. Thực thần tác hợp thời con cháu bất chánh. Ví dụ: Lấy Nhật can làm chủ, tính ngày Giáp, lấy quý làm chủ mẫu, gặp Mậu, Thìn, Tuất là chú và vợ lẽ. Trong tứ trụ có các chữ Kỷ Sửu Mùi Ngọ, như vậy xảy ra chuyện tranh giành với chữ Mậu và thương khắc quý thủy. Như vậy rõ ràng là mẹ bị khắc. Gặp chữ Giáp Dần thời khắc Cha và vợ thứ, gặp chữ Canh Thân thời khắc anh chị, gặp chữ Ất Mão thời khắc em trai em gái, gặp chữ Bính Ngọ thời khắc con trai, con gái. 180 Về tuế vận, gặp chữ nào thuộc người nào thì khắc người ấy. Sau đó lại xét các yếu tố khác như xung khắc, suy vượng hưởng bội, cô thần quả tú, thân tuy không vong. Riêng về không vong gặp hai ba không thời lại hóa tốt. Kim gặp không thời vang rền. Hỏa gặp không thời phát. Thủy gặp không thời chảy được (3 hành này gặp không thời tốt). Mộc gặp Khôn thời nát mục, thổ gặp không thời lở sụp (2 hành này gặp không thời xấu) Việc khởi trảm không tính theo năm là chính xác. Sau đây là phần chú giải thêm về lục thân - Sinh ra bản thân ta là cha mẹ, khắc mẹ tức là cha. Lý do: Mẹ là thê tài của cha, nên khắc mẹ tức là cha. Ví dụ: Nhật can là giáp, lấy quý làm chính mẫu, Mậu khắc quý vậy Mậu là cha đồng thời cũng là thiếp. - Ta khắc là thê tài như Giáp lấy Mậu Kỷ làm thê tài. - Những gì do ta sinh ra là con cái Giáp lấy Bính Đinh làm con cái. - Đồng hành với ta là anh em, chị em. - Sinh thê tài là bố mẹ vợ. - Khắc mẹ vợ là cha vợ. Về nữ mạng, thời lấy hành nào sinh Nhật can làm tử tức, lấy khắc Nhật can làm phu tinh. - Sinh ra phu tinh là mẹ chồng. - Khắc Mẹ chồng là cha chồng. Còn về cái thêm khác, cũng giống như nam mạng. 181 Luận về Cha: Ấn thụ có nhiều là Cha mẹ, nhưng chỉ nói chung, nhưng khi phải phân tích hành nào là Cha, hành nào là Mẹ điều đó sẽ gặp khó khăn. Vì thế cần phải đi sâu vào chi tiết hơn, và dựa vào ngũ hành để xác định hành nào là cha, hành nào là mẹ. Mẹ là Chánh ấn, còn cha là thiên tài, lý do đó được giải thích như sau: Sinh ra ta là mẹ, khắc mẹ là cha, mà cha lại chính là Thiên tài. Ví dụ: Sinh ngày Giáp, tất nhiên lấy chữ Mậu làm cha vì lẽ: Giáp lấy Quý làm mẹ (Quý sinh Giáp) mà Mậu khắc Quý (Mậu cũng hợp với Quý), Quý lấy Mậu làm phu tinh, vậy chồng của Mẹ tức là Cha mình. Nhưng nhìn vào mối tương quan giữa Giáp và Mậu thời Mậu lại chính là Thiên tài của Giáp, vì vậy lấy Thiên tài là Cha (đồng thời là vợ kế) và Chính Ấn là Mẹ. Từ đó sẽ suy diễn ngũ hành trên cơ sở sinh khắc chế hóa để biết số có khắc cha hay không? Đã biết được Mậu thổ là Cha, thời rất kỵ hành mộc. Nếu gặp chữ Giáp Dần hoặc mộc cục, hoặc Mậu Thổ gặp tứ tuyệt hình xung là số khắc cha, nếu không cũng phải xa lìa cha, hoặc cha bị tàn tật. Nếu gặp được chữ Canh, chữ Thân cứu hại thời ít bị tai hại. Nếu Giáp vượng Mậu suy thời cũng khó được nhờ cậy. Nếu Mậu thổ gặp sinh vượng, quý nhân, Thiên Nguyệt tức thời cha mẹ quý hiển. Ngoài ra, nếu có thêm Bính Đinh sinh trợ, thời được hưởng phúc lộc của Cha khá dồi dào. Nếu gặp tuyệt địa, phụ thân chết ở tha hương, gặp suy bại, khắc chế hoặc mộ tuyệt không được nhờ cha. Luận về Mẹ: Chính ấn là người sinh ra bản thân ta tức là Mẹ. Sinh ngày Giáp cố nhiên lấy quý là mẫu tinh, nếu gặp Kỷ Sửu Mùi thời khắc mẹ. Vì Quý là số thuộc hành thủy, gặp Kỷ Sửu Mùi là bị thổ khắc thủy. Nếu gặp nhiều hành thổ, mẹ phải tái giá. Có chữ Mậu gặp hãm địa (Mậu là chồng của quý) hoặc bị khắc, thời mẹ bị thương khắc đời chồng trước. Chữ Mậu gặp sinh địa hoặc số đào hoa, Mộc dục là mẹ có ngoại tình. Nếu Ấn gặp Trường sinh thời Mẹ là người hiền trung và sống lâu, mẹ con hòa thuận. Nếu gặp Dương nhận hoặc gặp 182 tuyệt mộ cô quả thời mẹ không hiền thục, hoặc mẹ bị tàn tật, mẹ con không hòa thuận. Đào hoa còn có tên khác là Hàm Trì sách chủ về sự dâm dục và xuất hiện ở bốn cung Tỵ Ngọ Mão Dậu. Luận về Thê Thiếp: Chính tài cũng là chính thê, còn thiên tai là thiếp. Giáp mộc lấy Kỷ Thổ làm chính tài, Mậu thổ làm thiên tài, nếu gặp Ất, mộc cục Họi Mão Mùi tất là khắc vợ, gặp Giáp Dần cũng khắc thê, vợ là người bất chính. Tài gặp suy bại mộ tuyệt vợ có tật và bất hiền, nếu không thời tuổi cao còn tái giá. Gặp chữ Quý thời vợ lẽ bất chính, gặp những chữ Kỷ Thổ, Sửu Mùi thời vợ được yên lành, gặp Tỷ kiên thời tai bị thương tổn. Tài gặp Mộc dục, Đào hoa thời vợ tư thông với kẻ khác. Ở cột tháng cột ngày có tài quan thời vợ giỏi về nội trợ. Đặc biệt thê tài mà thiên tài đắc vị thời vợ nhỏ lấn quyền vợ lớn. Chính tài vượng thời vợ cả không có lòng khoan dung vợ nhỏ. Tài quan đều tốt thời là người sợ vợ, rất kỵ gặp Thiên sát. Tài nhiều mà thân suy nhược, vợ lấn quyền chồng. Tài và mạng đều hữu khí, thê thiếp hòa thuận và được nhờ vợ. Cột ngày gặp không vong, khó nhờ cậy vợ. Ngoài ra, cột ngày có Cô thần, Hồng loan, âm dương lẫn lại. Thời khắc vợ, số phải chăn đơn gối chiếc, hoặc đi ở rễ. Nữ mạng phạm cách này thường bị cha mẹ ghét bỏ, hoặc bị kiện tụng. Chú giải: Môc dục thuộc thủy lại gặp đào hoa nên cuộc đời trôi nổi. Vì vậy, thê thiếp thường tư thông với người khác. Còn không vong, có hai ngày phạm không vong là Giáp Tuất và Ất Hợi. Luận về anh em, chị em Để phân biệt rõ anh và em hay chị và em, ta vẫn căn cứ theo âm dương ngũ hành mà suy đoán - Dương gặp dương là anh em như Giáp gặp Giáp. - Âm gặp Âm là chị em như Ất gặp Ất. - Âm gặp Dương là anh: Ất gặp Giáp 183 - Dương gặp Âm là em gái: Giáp gặp Ất. Tỷ kiên là chỉ về anh em, theo nghĩa thông thường tỷ là so sánh ngang nhau, kiên là vai, ý nói là người ngang hàng. Về hàng can, Giáp coi Ất là em trai hay em gái, Giáp gặp Giáp và coi là anh. Về hàng Chi như Dần với Mão cũng chung một ý nghĩa. Theo nguyên tắc sinh khắc chế hóa, Giáp gặp Canh thời khắc anh, gặp Tân thời khắc em. Giáp mộc vượng tướng thời anh chị tranh giành của cải. Giáp Ất Dần Mão xuất hiện nhiều trong tứ trụ thời anh chị em tranh của, bất hòa, cãi cọ miệng tiếng. Gặp Kỷ hợp với Giáp thời anh hay chị thường bất chánh. Gặp Canh thời em trai, em gái bất chánh. Nếu gặp nhiều sát, Ất mộc lại thành cục (Hợi Mão Mùi) thời sát hợp lục với Ất mà thương khắc giáp, do đó anh bạc phước, em khá giả, anh phải nhờ sức của em. Trái lại Giáp sinh vào tháng Dần, Ất mộc lại bị khắc chế thời anh vượng mà em suy. Ngoài ra, xem anh em hòa thuận hay bất hòa cũng đều căn cứ theo bát tự, dựa trên các yếu tố sinh vượng tử tuyệt mà suy diễn thời rất ứng nghiệm. Luận về tử tức: Nam mệnh lấy can khắc Nhật can (tức là Thất sát) làm con cái. Như Giáp mộc lấy canh kim làm Thất sát. Còn ý nghĩa của chữ Thất sát được giải thích như sau: Từ Giáp đến Canh ta đếm được 7 số, còn sát có nghĩa là khắc chế. Do đó có danh từ thất sát. Một điều nữa cần ghi nhớ: Cột ngày là bản thân, cột giờ là con cái. Nếu cột giờ có thất sát là đông con. Thất sát là con, như Giáp gặp Canh Thân là con trai, Tân Dậu là con gái. Nếu gặp Bính hỏa, Ngọ Dần hay gặp sát như dương nhận tất nhiên khắc con. Nếu không thời con cũng tật bệnh hoặc thuộc loại bất hiếu bất mục. Gặp Mậu Kỷ vượng thời con cái hòa thuận và có thể nhờ cậy. Gặp chữ Bính chữ Tỵ thời con gái bất chánh, gặp thêm đào hoa, Mộc dục cùng là ám hợp, có nhiều thực thần thời con gái dâm bôn. Nếu Sát gặp Trường sinh, Nguyệt đức, Thiên đức hội họp với quý nhân, Lộc mã, Thực 184 thần và tài tinh, thời cha mạnh con quý hiển. Ngày Dương, giờ Dương ảnh hưởng thiên về con trai Ngày Dương, giờ Âm trước trai sau gái. Ngày âm, giờ âm ảnh hưởng thiên về con gái. Ngày âm giờ dương trước gái sau trai. Thương quan gặp quan, con cái chẳng lành, cột giờ có Thương quan gặp không vong, khó có con cái. Về nữ mạng, lấy Thương quan làm con trai, thực thần làm con gái, nếu gặp Ấn thụ Đảo thần thời không con. Nam mệnh có quan sát đắc thọ, nhưng cần nhất là phải được khí trung hòa. Căn cứ vào lẽ sinh thành mà suy đoán. Tử tức gặp sinh vượng thời nhiều gặp tử tuyệt thời hiếm hoi. Còn hai trường hợp thái quá và bất cập lại đoán theo cách khác. Thaáiquá thời tuy nhiều con nhưng bị hình khắc, chết non, con cái hung dữ. Bất cập thời ít sinh dưỡng. Quan sát đắc địa được phù trợ, nhiều cát tinh, thời con cái hiền từ thảo thuận. Gặp hưu từ tử tuyệt phá bại suy bệnh. Không lưu thời con cái bất hiếu, nghèo hèn tật bệnh. Nếu gặp thêm cô thần quả tú, thời số cơ khổ lênh đênh. Ví dụ: Ngày Giáp Tý, giờ Canh Tý, Canh là sát của Giáp tắc là con cái. Canh đến Tý gặp Tử, Tử tức gặp tử thời đến già vẫn không con, gặp giờ nhập mộ thời có con chết, gặp tuyệt thời nhiều lắm là 1 con, gặp thai sinh con gái đầu lòng bị khắc, gặp dưỡng sinh ba nuôi được hai. Gặp trường sinh được ít nhất 7 con. Gặp Mộc dục được hai con, gặp Quan đới Lâm quan được 3 con, gặp vượng được 5 con, gặp suy 2 con, bệnh 1 con. Đặc biệt trong bát tự không có tử tinh, cột giờ lại không gặp sinh vượng, gặp vận quan sát vượng thời có con, vận qua rồi thời không có. Trong tứ trụ có quan sát mà gặp vận Thương thời bị hưu, suy, tuyệt nhược thời tổn thương con cái. Nếu vận dã qua thời vô 185 hại. Trong bát tự có một sát thời có 1 con trai, hai sát có hai con trai. Không có sát thời không có con trai. Trong tứ trụ, mệnh cường mà sát vượng thời nhiều con. Sau đó xem tài thần suy vượng ra sao, cứ căn cứ vào giờ mà suy đoán rất ứng nghiệm. Chú giải: Trong bài này có hai chữ: cát tinh và không hư cần xác định rõ: Cát tinh là Thiên, Nguyệt đức, Thiên quan, thiên phúc. Không vong tức là Tuần không: Cung Dương là Không. Cung âm là vong, còn cung xung tối, cung dương là cô, cung âm là hư. Luận về nữ mạng: Xét về nữ mạng có nhiều điểm khác xa với Nam mạng. Vì thế, quan Tiến sĩ họ Đinh biệt hiệu là Thảo Đường có nghiên cứu và làm bài “Nguyên thần thú bát pháp” trong đó bàn về nữ mạng đặc biệt lấy Thuần hòa làm quý, bác tạp là tiện dâm. Nữ mạng lấy quan tinh làm phu tinh, được tài vượng sinh quan tinh thời chồng có phước. Có cả Ấn thụ và tài thần thời chồng quý hiển. Ấn thụ có sinh khí thời con cái hiếm hoi. Ấn thụ, tài, quan gồm đủ thời xuất thân trong gia đình khuê các, tài mạo song toàn. Ngày Giáp gặp Tân Dậu là chồng chính thức, gặp Đinh Ngọ thì khắc chính phu. Canh Thân là chồng kế. Nếu trong tứ trụ có đủ cả Canh Thân Tân Dậu thời khắc chồng và tái giá. Nếu gặp nhiều tài, quan sát lại quá vượng, như vậy bản chất dâm dật, số tất nhiều chồng. Tài nhiều thời dâm, nên nữ mạng không nên quá nhiều tài, cần đủ để vượng phu ích tử. Nếu quan tinh đắc địa, Thất sát bị khắc chế, can của Thực thần lại vượng lại hội họp với Ấn thụ Thiên Nguyệt đức thì phu vinh tử quý, số được phong tặng. Xét nữ mạng, xem kỹ bát tự, nếu có Thương quan, quan và sát hỗn tạp, Thực thần và tài thần đều vượng thân lại suy nhược thời bản chất đố kỵ, dâm dật tham lam, hung dữ đáng sợ. Thương quan gặp quan thời số khắc chồng và tái giá, thân tâm đều lao khổ. Nếu không khắc chồng thời cũng bệnh hoạn, trọn đời kém phước, cuộc sống không yên lành. Kỵ nhất là cột năm có Thương quan, gặp cách này thời sanh nở nguy hiểm, nếu không càng tổn thọ. 186 Về đặc tính của Thương quan đối với Nữ mạng là người thông minh, đẹp đẽ. Thương quan gặp sát thời giàu có (Thương quan khắc chế thất sát), thiếu tài tinh thì nghèo, gặp kiếp tài bại tài (tỷ kiếp) hội với Thương quan thì nghèo hèn. Thất sát hay chính quan chỉ cần một mới tốt nhiều sát tất nhiều chồng. Quan sát gặp hợp thời bị chị em gái hoặc tôi tớ gái cướp chồng. Ví dụ: Giáp lấy Tân làm quan tinh, Tân gặp Bính bị hợp. Ất lấy Canh làm quan tinh gặp Đinh (Đinh khắc Canh), Mậu lấy Ất làm quan tinh gặp Tân (Tân khắc Ất). Nói chung cách suy diễn theo nguyên tắc trên, nữ mạng rất kỵ. Trong bát tự có Thương quan hoặc quan tinh gặp Tử, tuyệt, hay cô thần quả tú, ngày giờ lại gặp không vong, đó là số cô đơn khắc chồng. Nếu hàng Thiên can lộ ra quan sát, địa chi không có quan sát, lại gặp Hưu tù tử tuyệt là nơi thoái khí, đó là cách “Nữ tuyệt phu chi khí”, số phải làm nhỏ hay tỳ thiếp. Tốt nhất là Nữ mạng có Thiên, Nguyệt đức thời tránh được mọi hiểm nghèo khi thai sản và không dâm dật. Nữ mạng thân suy nhược thời bẩm tính ôn hòa, khéo léo và hiếu thảo với bố mẹ chồng, giúp đỡ kính yêu chồng. Nếu thân vương thời lấn chồng, khi dễ cha mạ chồng, làm điều tai quan, tính nết hơi nóng nảy. Trong bát tự rất cần có quý nhân và kỵ dịch mã, hàm trì (Đào hoa). Cần được thuần, hòa nhu nhược, không nên quá cường vượng. Xét về tuế vận cũng vậy. Ngoài ra, nếu bị âm dương bác tạp, có thêm cô thần, Hồng loan trong cột ngày thời việc giá thú bất lợi, khó mang có ngày động phòng hoa chúc. Sau đây là phần chú giải bổ túc về nữ mạng Nói chung là phụ nữ khó bề tự lập thường phải dựa vào người chồng để giữ cuộc đời, cho nên quan tinh quý hiển tức là chồng quý hiển: chồng quý hiển thì vợ mới được thơm lây. 187 Thương quan là con và cũng là hành khắc chế quan tinh nên mới gọi là thương quan (thương là hại, quan là quan tinh). Ví dụ Sinh ngày Giáp lấy Tân làm quan tinh, Tân là kim, Đinh là thương quan tức con gái. Đinh hỏa khắc Tân Kim. Đó là ý nghĩa của chữ thương quan. Nếu quan tinh (quan tinh) vượng thời Thương quan không thể thương khắc được. Tuy nhiên gặp thương quan thời đời sống kém hạnh phúc hoặc người hay bệnh hoạn vì theo lẽ thường, chồng bị thương khắc thời bản thân khó được yên vui. Sát coi như một phu tinh, quan cũng coi là 1 phu tinh, nếu gặp cả quan lẫn sát thời số hai chồng. Quan tinh gặp tử tuyệt tức là quan tinh bị tử tuyệt. Hàm trì tức là Đào hoa sát gặp dịch mã, số gái dâm dục và hay tư thông với kẻ khác. Phú đoán về nữ mạng: Xem nữ mạng, điều quan trọng nhất là coi phu tinh thịnh hoặc suy, sau đó mới đoán thân vinh hay nhục, kế đó xét về tử tinh, tuế tinh cường vượng là tốt. Phu vinh tử vượng, đó là số giàu sang. Con gặp tử, chồng gặp suy, đó là số cơ khổ, nghèo hèn. Có đầy đủ chồng con mà bị nghèo hèn, túng thiếu bởi vì thân gặp suy. Không chồng không còn mà giàu có bởi vì thân ở vượng địa. Nói về Thiên phu (Thất sát), Thân vượng mà Thiên phu suy thời là người liêm khiết, trái lại sát vượng thân suy thời là số cơ hàn. Nữ mạng lấy thực thần làm con, như sinh ngày Giáp lấy Bính làm thực thần, Ất lấy Đinh làm thực thần.Thực thần gặp vượng tướng thời con hiển đạt. Nữ mạng tổng đoán Phú quý bần tiện 188 Muốn giải đoán về Nữ mạng, việc trước hết phải xét kỹ quan tinh. Có quan lẫn sát thì bần tiện, chỉ có quan gặp vượng (đắc lệnh) thời an lạc vinh hoa, thương quan quá nhiều hoặc quá vượng thời khắc chồng. Đảo thực (tức Thiên Ấn) quá nhiều thời giảm phúc (ít con). Nếu gặp Cô Thần nữa thì khó có con. Sát quá vượng, thời thường bỏ nhà theo trai (giống như trường hợp Tuế Văn Quan bỏ trốn theo Tư Mã Tương Như), gặp nhiều hợp thời khó toàn trinh tiết. Mạng tọa lộc (lộc tức quan tinh) thời tính tình kín đáo, trung hậu. Mạng bị xung thời nhẹ dạ nhắm mắt đưa chân. Nếu gặp Đào hoa lãng cổn (Đào hoa gặp Mộc dục gọi là Đào hoa lãng cổn) là kẻ bôn dâm vô sĩ. Nhật lộc quy thời (can ngày gặp cột ở cột giờ) quý hiển và được mọi người kính nể. Nữ mạng nếu gặp được 2 sao Thiên Nguyệt Đức gồm Thiên Ấn thụ thời số được tặng phong. Cung ngày và giờ gặp Dương nhận thì bản tính hung dữ, dĩ nhiên là bất lợi cho chồng con làm tổn hại cho nữ tính. Nhật can cường vượng, cột giờ xuất hiện thực thần rất quý. Cần xem bát tự, thực thần vượng thời con vinh hiển. Rất kỵ Thiên Ấn quá vượng (hại con). Phận gái an vui chốn khuê môn là nhờ Nhật chủ giữ được khí trung hòa (không quá vượng, không quá suy). Nói chung là Nữ mạng gặp được chính quan là tốt, rất kỵ Hàm Trì (Đào hoa). Gặp trường sinh thời thanh quý, gặp bại thì gian nan. Trong tứ trụ có nhiều bại rất kỵ xung thân và phạm hợp. Gặp cách này trọn đời vất vả, không làm kỹ nữ thời cũng làm ni cô, gặp Ấn suy bại thời xung khắc với bố mẹ chồng, thực thần vượng thời con cái nên người. Quan sát trùng phùng thì hay dâm loạn, nếu lại có chị em lộ ra (Tỷ, Kiếp) thời bị chị hay em cướp mất chồng, gặp Khôi cương là người đàn bà giỏi ứng biến, gặp Nhật quý (Nhật quý gồm có 4 ngày là Quý Mão, Quý Tỵ, Đinh Dậu, Đinh Hợi) thời được hưởng phúc an khang. Tất cả nếu lấy can chi mà phân định. Quan sát vượng mà không được chế phục nếu không là ca kỹ thời cũng là ni cô. Nữ mạng quý cách: Đối với nữ mạng, những cách sau đây đều được coi là quý cách: - Chính khí quan tinh: không bị hỗn tạp. 189 - Tài quan lưỡng vượng: tài tinh và quan tinh đều vượng. - Ấn thụ Thiên đức: có Ấn thụ gặp Thiên đức. - Thương quan sinh tài: có Thương quan sinh tài. - Tọa lộc phùng tài: Mệnh tọa lộc gồm cả tài tinh. - Quan tinh đối hợp: Quan tinh gặp hợp. - Nhật quý phùng tài: sinh ra ngày Nhật quý có tài tinh - Quan Quý phùng quan: Quan tinh gặp Thiên quan quý nhân - Quan tinh tọa lộc: Quan tinh gặp lộc. - Quan tinh đào hoa: Quan tinh gặp Đào hoa - Thực thần sinh vượng: Thực thần gặp sinh vượng - Thực thần sinh tài: Có thực thần sinh tài tinh - Sát hóa Ấn thụ: có Thất sát sinh Ấn thụ - Nhị đức phù thân: gặp 2 sao Thiên đức, nguyệt đức - Tam kỳ hợp cục: Trong tứ trụ có tam kỳ - Dương nhận hữu chế: có Dương nhận được chế phục. - Củng lộc củng quý: Được cách củng lộc củng quý. - Quy lộc phùng tài: Quy Lộc gặp tài. 190 Nữ mạng tiện cách: - Quan sát hỗn tạp: Trong cục có cả quan lẫn sát - Quan sát vô chế: Có Quan sát mà không bị chế phục. - Sát tinh thái trọng: Sát tinh nhiều hoặc quá vượng. - Thương quan thái trọng: Thương quan nhiều hoặc quá vượng - Tham tài hoại Ấn: Tài vượng quá hoại Ấn thụ - Tỷ kiên phạm trọng: Tỷ kiên quá nhiều - Vô quan kiến hợp: Tứ trụ không có quan mà Nhật can gặp hợp. - Vô số kiếm sát: không có Ấn mà gặp Sát. - Thương quan Thất sát: Mạng gặp nhiều Thương quan, Thất sát. - Đối hợp Đào hoa: mạng gặp Hợp đào hoa. - Bát tự hình xung: Tám chữ hình xung lẫn nhau - Tài đa thân nhược: Tài nhiều mà thân suy nhược - Dương nhận xung hình: gặp Dương nhận không hay hình. - Kim thần đối nhận: giờ Kim thần có dương nhận. - Đa quan đa hợp: Nhiều quan tinh gặp nhiều hợp. - Đảo tháp đào hoa: Hoa đào cắm ngược, như người sinh ngày Thân Tý Thìn, Đào hoa ở Dậu. Trái lại, sinh ngày Dậu mà gặp Nhâm Thân là cách Đào hoa cắm ngược, đàn bà gặ 191 cách này là cực dâm, còn gọi là Phương nhỡn đào hoa, số làm kỹ nữ, tỳ thiếp. - Thân vượng vô y: Thân vượng mà không có quan tinh hay tử tinh, tức là không có chỗ nương tựa. - Thương quan kiến quan: Thương quan gặp quan tinh. - Tài quan ngộ ấn: Tài quan gặp ấn - Ấn thụ ngộ kiếp: Ấn thụ gặp kiếp. Cổn lãng Đào hoa: Theo nghĩa thông thường, Cổn Lãng Đào Hoa là Đào hoa bị cuốn theo sóng. Đặc ngữ này nói Thương quan bị chế phục, mệnh gặp tuyệt địa hợp với Đào hoa, Mộc dục. Nữ mạng lấy quan tinh làm phu tinh, trong tứ trụ chỉ có một quan tinh duy nhất mới hợp cách. Nếu nhiều quan tinh thời số thường khắc chồng. Thương quan nhiều cũng không tốt vì Thương quan khắc chế phu tinh. Vì vậy, vận hành gặp Thương quan thường hay khắc chồng. Thương quan bị chế phục, Thân gặp Tuyệt thường là số kỷ nữ, khắc con cái. Trái lại, Mạng có quý nhân hợp với quan tinh dù có lâm tuyệt địa vẫn được giàu sang và là người trinh khiết. Nữ mạng có Đào hoa gặp mã thường dâm dật hại chồng phá của. Nữ mạng rất kỵ Thìn Tuất, vì Thìn Tuất là vị trí của ác sát Khôi cương, La võng chi địa. Gặp Thìn mà không có Tuất thời cô đơn, tuổi già buồn tẻ. Tuất nhiều mà không có Thìn, tuổi nhỏ gian nan, trung niên khá, không thương quan khắc tử, cuộc sống phong lưu nhưng bản tính dâm dật. Nếu có đủ cả Thìn Tuất thời là người dâm loạn, phá cực, khắc chồng hại con, không thọ hoặc bị tàn tật. Nữ mạng tổng đoán ca: Đây là một bài ca mỗi câu 5 chữ như ngũ ngôn thi. Lời lẽ rất xúc tích và có tính cách tổng hợp những đặc điểm về Nữ mạng để giải đoán. 192 Việc nghiên cứu nữ mệnh cần phải hết sức trầm tĩnh và phân tích tỷ mỹ đặc biệt là hai cung phu và tử. Phu tinh cần cường vượng, bản mệnh cũng không nên quá suy nhược. Quan tinh không gặp hợp thời chồng khó hiển đạt. Hợp tuyệt không nên hợp quý đó là bí quyết ít người biết. Quan tinh đối lộc ở sinh vượng địa, thân lại quá suy nhược thời hay bị sẵn ách có khi mạng vong. Dịch mã gặp quý nhân, số gái thường lưu lạc. Đã có Thìn không nên có Tuất, hoặc có Tuất không nên có Thìn. Nếu gặp cả Thìn lẫn Tuất thời là số dâm tiện. Vì Thìn Tuất là vị trí của Khôi cương La võng hung thần ác sát, nữ mạng rất kỵ. Có sát không sợ hợp, không sát mới sợ hợp. Hợp thần nếu quá nhiều, số gái là kỹ nữ, ca nữ. Mạng gặp quý nhân thường lấy chồng sang và được ái sủng. Dương nhận hợp với Thương quan, đó là số bác tạp gặp nhiều thị phi (cột ngày có Dương nhận gặp Thương quan). Trong tứ trụ quá nhiều Ấn thụ, thời số khắc con. Có Thiên Đức, Nguyệt Đức hợp với Chính tài, số gái được giàu sang. Trong nhược, thêm hai chữ Tý trong có chức Quý thủy khắc Đinh Hỏa, giờ Đinh Tỵ, trong Tỵ có chứa canh kim, kim sinh thủy, thủy thế rất mạnh, hỏa khí càng suy, ấn thụ hết tác dụng. Tiểu như ngày sinh tháng giêng, chết vào tháng 11 tức là tháng Tý, cách này gọi là “sinh sát hoại Ấn”. Quý thủy là tài, Giáp mộc là sát, Đinh hỏa là Ấn. Mạng này trong tứ trụ tài xuất hiện quá nhiều. Sanh đứa con này ra được ít lâu mẹ chết, sau một năm cha chết phải đem cho người khác. Do đó số tiểu nhi mà tài nhiều hay khắc phụ mẫu. Luận về giờ quan sát của tiểu nhi Có nhiều nhà thuật sĩ bàn cãi về giờ quan sát mỗi người một khác. Nhưng tìm hiểu cho đến nguồn gốc hai chữ quan sát, thực ít người biết. Trong tứ trụ có một sát gọi là Quan, có một tài gọi là sát. Quan và sát phải xuất hiện ở cột năm và cột giờ mới chuẩn xác. Xem số tiểu nhi, chủ yếu là xem giờ sinh, coi kỹ quan sát, sau đó mới xem cách cục. Nhật chủ mạnh, tài quan vượng, số quan không sát, Nhật can yếu, tài quan ít, tuy có bệnh nhưng nuôi được Nhật can yếu, tài quan nhiều, có đủ cả quan lẫn sát lại gặp tam hợp nhiều sát tinh tất nhiên khó nuôi. Trong bát tự có tài quan là sinh trưởng ở gia đình phú quý, gặp Thiên quan thời gia đình 193 bình thường. Có Thương quan kiếp tài thời xuất thân ở gia đình nghèo khó. Gặp Thiên quan, Thiên Ấn, Thiên tài thời thường là con vợ nhỏ, nếu không cũng là con thứ ba, thứ tư. Môn Tử Bình lấy Thiên quan làm Quan, lấy Thiên tài làm Sát. Căn cứ theo giờ sinh mà đoán. Thủy một, hỏa hai, mộc ba, kim bốn, thổ năm. Ví dụ ngày Giáp gặp giờ canh, hạn năm 4 hay 9 tuổi. Ngày Bính gặp giờ Nhâm, hạn 1 hay 6 tuổi. Ngày Mậu sinh giờ Giáp, hạn 1 hay 8 tuổi. Tứ trụ đều gặp hưu trì, số gái được phong tặng (nữ mạng thân mệnh quá vượng cũng không tốt, trái với nam mệnh). Trong tứ trụ có đủ bốn hành Dần Thân Tỵ Hợi cũng không tốt, bản tính đa dâm miệng lưỡi (Vì Dần Thân Tỵ Hợi là vị trí của Dịch mã). Gặp Tý Ngọ Mão Dậu thời hay bỏ nhà theo trai. (Đào hoa ở 4 cung này) gặp cả Thìn Tuất Sửu Mùi cũng rất kỵ. Có hai quý nhân và chỉ có một sát thời chồng giàu sang quyền hành. Tài quan nếu ở vào mộ cung, thời cần được xung phá mới phát. Nữ số mà phạm Thiên can nhất tự (Thiên can cùng 4 chữ Giáp hay Ất...) thời số cô đơn dễ bị tai họa. Địa chi nhất trị (địa chi 4 chữ Tý hay 4 chữ Sửu...), thời phải qua hai lần đó. Luận số tiểu nhi Luận số tiểu nhi luôn luôn phải dựa vào nguyên tắc trung hòa, không thái quá mà cũng không bất cập, tứ là mệnh không nên quá vượng mà cũng không nên quá suy nhược. Ngoài 15 tuổi mới có thể xác định được là quý hay tiện. Số Tiểu nhi nếu có nhiều tài tinh xuất hiện thời khắc cha mẹ, khi còn nhỏ tính niên vận cũng vận, gặp tài vận hay khắc cha mẹ. Nói chung là số tiểu nhi cần thân vượng (không quá vượng) rất cần được ấn thụ sinh nhật can, không bị tài khắc thời dễ nuôi và ít bệnh. Rất kỵ quan tinh Thất sát, Dương nhận Thương quan quá vượng. Thân có vượng cũng nhiều tật bệnh. Thân mệnh suy nhược thời khó nuôi.. Nếu gặp giờ kỵ thời rất đáng ngại gặp Tuế quân hỗ trợ cho giờ đó. Đáng ngại nhất là tài quá vượng thời hình khắc phụ mẫu trầm trọng, thường phải làm con nuôi. Tuổi thơ ấu gặp tài vận rất nguy hiểm. Can Mậu sinh tháng Dần gặp Thất sát khắc chế Nhật can. Nhờ có Đinh hỏa là Ấn thụ hỗ trợ. Đinh hỏa gặp tháng Dần được mộc sinh đến đây coi như tốt. Rất tiếc có hai chữ 194 Canh Tý ở cột năm, khắc chế Đinh hỏa làm mất tác dụng sinh nhật can, sinh vào tháng 7, Thất sát đã khắc thân làm cho thân suy, ngày Canh gặp giờ Bính, hạn 2 hay 7 tuổi. Ngày Nhâm gặp giờ Mậu, hạn 5 hay 10 tuổi. Đối với Âm can, cũng tính theo cách đó. Luận về tính tình: Đoán về tính nết con người, Môn Tử Bình đặc biệt dựa theo hình tượng của ngũ hành là Kim mộc Thủy hỏa thổ. Xét tính tình con người cũng căn cứ vào tứ trụ. Nếu bị xâm phạm quá nhiều thời không phải là người thanh cao. Bị khắc nhiều thì hay bệnh hoạn. Riêng xét về Nhật chủ, nếu ngày sinh thuận với tháng sinh nhu ngày Giáp sinh tháng Dần, mộc xanh tốt, người khỏe mạnh, nghịch với tháng sinh như ngày Giáp sinh tháng Thân thì cuộc đời bị điêu linh, thân thể không được trọn vẹn. Tính tình bắt nguồn từ hỷ mộ ái lại ái ố dục, thể hiện trong 5 thường là nhân nghĩa lễ trí tín. Con người sinh ra do tinh của Cha, huyết của mẹ mà cấu thành và có mật thiết với ngũ haàh. Dựa vào ngũ hành, nhân nghĩa lễ trí tín được phân bố như sau: Mộc gọi là khúc trực, có vị chua, thuộc Nhân, là người giàu lòng trắc ẩn, nhân từ thỏa thuận thường hay giúp đỡ người khác, thương người góa bụa, cứu kẻ mồ côi, điềm tĩnh thanh cao, vẻ người thanh tú, vóc dáng hơi cao, vẻ nước da xanh lợt, vì thế có câu mộc thịnh đa nhân. Nhưng nếu mộc suy yếu hay quá vượng cũng không tốt. Vì lẽ mộc quá cương tắc chiết làm việc hay thiên vị. Nếu bất cập thì ít lòng nhân từ, hay có lòng đố kỵ. Hỏa gọi là Viên thượng, chủ vị đắng, thuộc Lễ, có lòng nhường nhịn, cung kính pháp tắc, tính chất thuần phác. Dáng người trên nhọn dưới tròn, Ân dương hẹp, lỗ mũi hơi lộ, tinh thần sáng suốt bén nhạy, lời nói hơi nhanh, hơi nóng nảy sắc mặt đỏ lợt, ngồi hay rung đùi. Thái quái thời thông minh nghiêng về nghi thức, tính nóng nảy, râu đỏ. Bật cập thời da hơi vàng, ốm yếu, người thâm hiểm, hữu thủy vô chung. Kim gọi là tòng cách, chủ vị cay, thuộc Nghĩa ghét người ác độc thậm tể, có lòng trọng nghĩa khinh tài, anh hùng dũng cảm, biết điều liêm sỉ, người vừa tầm thước, xương thịt cân xứng, mặt vuông sắc trắng, mày cao mắt râu, mũi cao tai ngửa, tiếng nói trong 195 vang, rất cứng cỏi và quyết đoán. Thái quá thời thiếu lòng nhân, thích đấu tranh, nhiều tham vọng. Bất cập thời suy tính quá kỹ, thiếu quả quyết và bủn xỉn, làm việc hay chán nản, thiếu kiên nhẫn. Thủy gọi là nhuận hạ, vị chủ Mậu, thuộc trí, là người túc trí đa mưu, tính toán xa xôi, văn học thông minh, tâm tính quỷ quyệt, cuộc đời thường trôi nổi, thích mưu mô gian hiểm. Bất cập thời nhát nhúa vô mưu, hay phản chủ, vóc người ốm nhỏ. Thổ gọi là giá sắc câu Trần, vị ngọt, thuộc chữ Tín, tâm hồn thành thực, bản tính đôn hậu chí thành, lời nói việc làm đi đôi, giàu lòng tín ngưỡng. Người lưng tròn eo rộng, mũi lớn miệng vuông, lông mày thanh tú, da mặt như vách tường hơi vàng lợt. Mọi việc đều không khinh xuất, độ lượng cởi mở rộng rãi. Thái quá thời ngu độn chậm chạp, tin người xưa đến như mù quáng. Bất cập thời nhan sắc u sầu, mũi thấp, mắt nhỏ, tiếng đục, quá chất phác. Thái quá thời hay cố chấp khó hòa mình với quần chúng, tính nết thâm trầm, độc ác, không giữ chữ tín. Nhật can suy nhược thân hay co rút xấu hổ. Nhật can mạnh thời hay chấp nhất kiêu ngạo. Bàn về tính tình có thể dựa vào hình tượng ngũ hành mà giải đoán ít khi sai lầm. Luận về tật bệnh: Tật bệnh do tinh thần khí huyết mà ra. Ở trong cơ thể gọi là tạng phủ, ở người là tứ chi. Luận tật bệnh cũng dựa theo bát tự can chi, lấy ngũ hành sinh khắc chế hóa mà suy đoán. Ngũ hành can chi nằm trong bát tự vượng quá cũng như bất cập đều bệnh hoạn. Hành kim thời chủ bị tai ương vì vật bén nhọn thành thủy thời họa hoạn về sông nước. Hành mộc thời treo cổ tự tử, hoặc ác thú thương tàn. Hành hỏa thời hay nậy nự kinh hoàng, rắn đốt lửa thiêu. Hành thổ thời hầm sập đất đè, tường siêu vách đổ. Sau đây là các tạng phủ thuộc thiên can: Giáp là gan, Ất là mật, Bính là tiểu trường, Đinh là tim, mậu là dạ dày, Kỷ lạ tỳ, Canh là đại trường, Tân là phổi, Nhâm là bàng quang, Quý là thận. Thiên can thuộc về ngoài tạng phủ. 196 Giáp là đầu, Ất là cổ, Bính là vai, Đinh là ngực, Mậu là sườn, Kỷ là bạng, Canh là rốn, Tân là bắp vế, Nhâm là bụng chân, Quý là chân. Các bệnh tật thuộc về 12 chi: Tý: bệnh sáu khí (Đau bụng vì tức hơi mà không đại tiểu tiện được). Sửu: đau bụng; Dần: đau cánh tay Mão: đau mắt, tay. Thìn: đau lưng, bụng. Tỵ: đau mặt và răng Ngọ: đau ngực và bụng Mùi: đau lá lách Thân: có bệnh ho Dậu: đau gan, phổi Tuất: đau lưng phổi Hợi: đau đầu và gan. - Gan là nhà của thận, thận là chủ của gan, thận thông nhìn ở mắt, mật chứa hờn, gan chứa phách. - Thận chứa tinh, tâm chắc Thần, tỳ chứa khí. 197 Mạng mộc gặp nhiều Canh Tân Thân Dậu quá nhiều dễ mắc bệnh liên quan đến gan mật. Về nội tạng, sinh lực yếu, hay mắc bệnh lao, thổ huyết, đầu váng mắt mờ, đàm xuyễn, miệng méo mắt lệch, bị phong chứng làm cho gan xương đau nhức. Ngoại thể thì da lông khô cằn, có mục tật, râu tóc thưa thớt. Đàn bà thời hay truy thai, khí huyết không đều, tiểu nhi hay mắc chứng kinh phong, khóc đêm hay ho. Kinh có câu: Gân xương đau nhức là do mộc bị kim thương. Cách này nói về Mạng mộc gặp kim khắc nếu có những bệnh đó. Bị khắc nhiều thì bệnh nặng, khắc ít bệnh nhẹ. Nếu có một mộc được vượng chỉ gặp một kim thời không hề gì. Mạng hỏa gặp thủy và Hợi Tý ở vào vương địa, thường mắc bệnh về tiểu đường. Về nội thương hay mắc chứng kinh phong, lưỡi ngắn, nóng quá phát điên cuồng. Ngoại thương thì mắt kém, mắc bệnh tiểu trường hoặc thận, ưng thư mụn nhọt. Tiểu nhi thường hay mắc chứng ban đậu ghẻ mụn. Phụ nữ bị bệnh huyết rong. Hỏa chủ về khí nóng, mặt luôn luôn đỏ. Kinh có câu: Mắt mũi mờ tối chỉ vì hỏa bị thủy khắc. Mắt là kết tinh của ngũ hành thủy hỏa mộc kim thổ, do đó mới phát sinh ra ánh sáng, nếu bị khắc chế, tất nhiên xuất ánh sáng. Mạng thổ gặp nhiều mộc và Dần Mão quá vượng thời tỵ vị bị thương. Về nội tạng ăn uống không tiêu, hay no hơi. Hay bị chứng vàng da, ít chịu ăn uống, hay nôn mửa. Ngoại thương thời tay trái, miệng và bụng có tật, da khô khan. Tiểu nhi hay mắc chứng cam tích. Thổ chủ về ôn nên hay yểu trệ. Sắc mặt hơi vàng. Kinh có câu: Thổ hư vì mộc vượng nên tỳ vị bị thương tổn. Mạng Kim gặp hỏa hoặc Tỵ Ngọ quá vượng thời đại trường và phổi bị tổn thương, hay ho xuyễn, mắc bệnh trĩ hoặc bệnh lậu. Ngoại thương thời chủ về da hoặc lông tóc khô cằn, mũi đỏ và hay mắc chứng ung thư. Kinh có câu: Kim yếu gặp hỏa vượng, thường mắc bệnh liên quan đến máu huyết. Kim chủ phổi và ruột già, nếu gặp nhiều hỏa thường hay mắc bệnh đó. Nếu gặp thủy có thể chế phục được hỏa và thành thủy hỏa tương tế tất nhiên không mắc bệnh đó. Mạng thủy gặp thổ hoặc sinh nhằm tứ quý thổ vượng thời hay mắc bệnh bàng quang và 198 thận, nơi thương thời mắc bệnh di tinh, bạch đới, hay mồ hôi trộm, thành giác khứu, thương hàn cảm mạo. Ngoại thương thời hay đau răng, tức bụng, thiên trụy, đau lưng, thổ tả. Nữ mạng hay sẩy thai. Thủy chủ về hàn, mặt hơi đau. Kinh có câu: Hay mắc hàn tật cũng do Thủy gặp thổ khắc. Thủy chủ về thận và bàng quang, gặp nhiều thổ bị khắc chế nên dễ mắc chứng bệnh trên, nếu có mộc khắc thổ thời không hề gì. Luận về đại vận Nơi quyển I, mục khởi đại vận, ta chỉ mới đề cập cách khởi đại vận như thế nào. Sau khi biết tuổi nào mới vào đại vận, căn cứ vào đâu để xét đoán đại vận. Cơ sở để dựa vào là can chi của tháng sinh, dương nam âm nữ thì thuần, dương nữ âm nam tính nghịch. Ví dụ: Nam mệnh sinh năm Mậu Dần, tháng Ất Mão ngày Nhâm Dần giờ Tân Hợi. Sau khi khởi đại vận, số này 8 tuổi mới vào đại vận nên lấy số 8 Tháng sinh là Ất Mão, số này Nam mệnh (Dương nam) mà tháng sinh là Ất Mão, đại vận khởi theo chiều thuận: Sau Ất là Bính, sau Mão là Thìn, vậy sơ vận là Bính Thìn sau đó cứ lần lượt tính theo chiều thuận mà an can chi của đại vận. Dương nữ, Âm nam thì tính ngược lại, ví dụ số trên là dương nữ, can chi của đại vận sẽ như sau: Về đại vận đối với Mệnh rất quan trọng, mệnh tốt hạn xấu phải chờ thời, mệnh xấu hạn tốt là gặp thời. Thiên can gọi là Ngũ vận, Địa chi gọi là lục khí, cho nên cũng gọi là phạm khí. 199 Theo thuyết của Tử Bình, coi đại vận coi địa chi là quan trọng, còn coi Thái tuế thời lấy can làm quan trọng. Trong Tử Bình thường có danh từ “giao vận đồng tiếp mộc” xin giải thích như sau: Can và Chi hợp lại thường được gọi chung là “lục thập hoa giáp”. Thiết nghĩ ở đây cần giải thích chữ Hoa, vì đó mấu chốt của vấn đề. Hoa có nghĩa là can và chi đều gặp thời mà được khai hoa kết quả. Năm là gốc, tháng là cành hay mầm mống, ngày là hoa, giờ là quả. Gốc cành là cơ sở và hoa quả là cứu cánh. Cây mọc lên nhờ cành ay mầm mống nhú lên mới biết là cây gì. Vì thế dựa vào tháng để lấy cách cục và xác định dụng thần. Nay xin đi vào đặc ngữ giao vận đằng tiếp mộc: giao vận có nghĩa là giai đoạn giao tiếp giữa hai đại vận như vừa ra khỏi đại vận và nhập đại vận Quý Hợi, đó là Can chi tiếp mộc. Còn Sửu vận sang Dần, Thìn vận sang Tỵ, Mùi vận sang Thân, Tuất vận sang Hợi đó là chuyển Giáp tiếp mộc. Đặc ngữ chuyển giáp tiếp mộc được giải thích như sau: Dần Mão Thìn thuộc về phương đông thuộc Mộc khí, mà Hợi Tý Sửu thuộc bắc phương thuộc thủy khí. Từ Sửu việc chuyển sang Dần là có sự thay đổi quan trọng từ Thủy chuyển sang mộc. Tỵ Ngọ Mùi thuộc về phương Nam thuộc hỏa khí mà Dần Mão Thìn thuộc phương đông thuộc mộc khí. Từ Thìn vận chuyển sang Tỵ là có sự thay đổi quan trọng từ Mộc chuyển sang Hỏa. - Thân Dậu Tuất thuộc tây phương thuộc Kim khí mà Tỵ Ngọ Mùi thuộc phương Đông thuộc hỏa khí, từ Mùi vận chuyển sang Thân có sự thay đổi quan trọng từ Hỏa chuyển sang Kim. - Hợi Tý Sửu thuộc Bắc phương thuộc thủy khí mà Thân Dậu Tuất thuộc Tây phương 200 thuộc kim khí, Tuất vận chuyển sang Hợi là có sự thay đổi quan trọng từ kim chuyển sang thủy. Vậy nói chung những sự thay đổi trên người ta gọi là tứ phương chuyển giác. Nếu cách cục xấu hay thất lộc trong những lúc gian nan kể trên. Cách cục tốt thường hay có thay đổi biến động. Về các đại vận có thể lượng giải như sau: Giáp Ất gặp vận Dần Mão, là gặp vận kiếp tài bại tài nên hay bị tổn thương thê, khắc phụ mẫu và khắc thê, thường có sự tranh chấp của cải. - Giáp Ất gặp Bính Đinh Tỵ Ngọ, gọi là vận Thương quan thường khắc con cái, hay mắc kiện tụng hay tù tội. - Giáp Ất gặp Canh Tân Thân Dậu tuế là vận quan sát, thời thiên về danh và lợi. Tuy nhiên nếu quan sát quá vượng thời lại do bị tai nạn, ác tật. - Giáp Ất gặp Nhâm Quý Tý Hợi tức là vận Ấn thụ, nhờ có sinh khí thường là điềm lành. - Giáp Ất gặp Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi là tắc vận, thời danh lợi hanh thông. Trên đây chỉ là những ví dụ chết thiếu hình hoạt để dễ bề suy luận. Điều quan trọng là dựa vào những yếu tố sinh khắc chế hóa, cách cục và dụng thần, hỷ kỵ ra sao để suy diễn, không nên quá câu chấp vào những điều nói trên. Điểm chính là biết biến thông, can vượng thời nên đi đến suy vận, can yếu thời nên đi đến vượng vận. Ngoài ra, còn cần để ý đến những ác thần như cô, hại, không, vong, câu giao, tang môn, điếu khách, tang mộ, bệnh, tử, quan phù, bạch hổ... có vậy việc xét đoán mới được ứng nghiệm. Một cách khác, nếu thấy Dương nhận đào hoa, phục ngân phải ngâm, hưu trì tử tuyệt suy bại đều hung tai gặp Đế vượng, Lâm quan, lộc mã, quý nhân, sinh dưỡng quan đới, khố thời tốt. Đặc biệt gặp không thời hung biến thành cát, cát biến thành hung. Tối kỵ là đại vận xung khắc với Thái tuế, hình xung khắc Thái tuế cùng Kỵ. Thái tuế xung khắc vận thời tốt, trái lại vận khắc thái tuế thời xấu. Nếu cách cục cũng xấu thời tính mạng khó 201 toàn. Tuế vận tương sinh thời tốt nếu được cả Lộc mã quý nhân càng thêm hay. Luận về Thái tuế cát hung Thái tuế là vua trong một năm, vì thế tuyệt nhiên không nên xâm phạm, phạm vào thời hung tai. Kinh có câu: Nhật chủ phạm tuế quân thì tai ương rất nặng, nếu trong ngũ hành có sự cứu giải thời năm đó lại phát tài. Ví dụ: Sinh ngày Giáp gặp năm Mậu, Mậu là Thái tuế, nếu bị thương khắc quá nặng tất là mạng vong. (Mậu là lưu niên chứ không phải ở cột năm). Sinh ngày Giáp Ất lại gặp các chi Dần, Hợi, Mão, Mùi (Mộc cục). Như vậy khắc thương tuế quân (Mậu) quá mạnh thời tính mạng lâm nguy, nếu được cứu giải thời tốt. Thế nào là cứu giải, tức là trong tứ trụ có Canh Tân, Tỵ Dậu Sửu là Kim cục, khắc chế mộc không được xâm phạm tuế quân như vậy. Tuế quân biến thành tài, năm đó có tài. Vì thế, Kinh có câu: Giáp Ất gặp năm Mậu, Kỷ rất đáng ngại vì thế trong tứ trụ rất cần có Canh Tân. Hoặc không có Canh Tân thời phải có Bính Đinh để làm cho mộc bị tiết khí, hoả thiên mộc, mộc không còn khả năng thương khắc tuế quân. Do đó chỉ bị tai nạn nhẹ. Sau cùng, nếu có chữ Kỷ để hợp với Giáp, Giáp tham hợp mà quân khắc tuế quân. Nói chung, không nên thương khắc tuế quân, thương sinh thời tốt. Được gửi bởi ba điều nói trên, thời năm đó phát tài, thương khắc tuế quân thời năm đó hung tai, khắc thê thiếp, hao tài, thị phi, đó ví như tội phạm thượng. Đặc biệt, nếu thêm câu giao không vong, Hàm trì, Trạch mộ, Bệnh, Hàm, Tử, Phù, Bạch hổ, Dương nhận tạ hội thời tai họa đẫy đà, mức độ nặng nhẹ tùy theo hung thần ác sát mà suy đoán. Nhật can dù không khắc Tuế quân, còn khắc mục khắc Tuế quân, nếu lại gặp Tuế vận xung hình, Dương nhận xung hợp thời phá tài tang tóc. Nếu có quý nhân lộc mã cứu giải thời ít lo Thái tuế là chúa tể của ác sát, nhập mệnh chưa hẳn là hung tai, trừ phi bị thương khắc thời bản mệnh mới gặp tai ương. Nhật can phạm tuế quân là vua tôi kình chống nhau, tất nhiên phải có 1 chết, tức là bày tôi phạm tội khi quân. Vì thế mới hiểm nguy cho bản mệnh. 202 Luận về vận hóa khí Luận về hóa khí dựa trên Ngũ can hóa hợp: Giáp hợp Kỷ hóa thổ; Ất hợp Canh hóa kim Bính hợp Tân hóa thủy; Đinh hợp Nhâm hóa mộc; Mậu hợp Quý hóa hỏa. - Giáp hợp Kỷ gọi là Trung chính chi hợp có đầy đủ các chi Thìn Tuất Sửu Mùi gọi là “Giá sắc câu Trần đắc vị”. - Ất hợp Canh gọi là “Nhâm nghĩa chi hợp” có đầy đủ các chi Tỵ Dậu Sửu gọi là tòng cách. - Mậu hợp Quý gọi là “Vô tình chi hợp” được hỏa cục thành Viên thượng cách. - Bính Tân hóa thủy được Thân Tý Thìn thủy cục gọi là Nhuận hạ cách. - Đinh Nhâm hóa mộc được Hợi Mão Mùi gọi là khúc trực cách chủ Nhâm và Ngọ. - Thiên can hóa hợp là tú khí, địa chi hợp cục là phúc đức. Gặp cách này nếu không bị khắc phục như Giáp Kỷ hóa thổ kỵ trong tứ trụ có hành mộc, sẽ được phú quý. Luận về công dụng của hóa khí 10 điểm: 1/ Giáp theo Kỷ mà hợp, nhờ Thổ mà sinh. Nếu gặp Ất thời khắc vợ hao tài, gặp Đinh thời thiếu ăn thiếu mặc, được cao sang quý hiển là nhờ ở Tân Kim, nhà cửa giàu có là nhờ công Mậu Thổ, gặp quý thời suốt đời hưởng phúc, gặp Nhâm thời trọn đời trôi nổi, giờ có Bính Hỏa thời hưởng lộc muôn chung. 2/ Kỷ thường hóa giả, tú khí quy tụ ở Dần, gặp Đinh thời bị người ta lăng nhục, gặp Ất thời bản thân gian truân, gặp nhiều Dương thủy (Nhâm) thời suốt đời bôn tẩu. Gặp Canh Kim cường vượng thời số cơ hàn nghèo khổ, gặp Bính Tân thời quý hiển, gặp Mậu quý thời khôn bần hàn. Nếu muốn được thăng quan tiến chức thời cần chữ Quý, muốn được 203 giàu có thời cần chữ Tân Thơ luận về Giáp hợp Kỷ và Kỷ hóa Giáp: - Giáp Kỷ trung ương hóa Thổ thần (Giáp Kỷ ở trung ương hóa khí thành thổ) - Thời phùng Thìn Tỵ vãn ai trần (Gặp giờ Thìn, giờ Tỵ tuổi già vất vả) - Cục trung Tuế nguyệt phùng viên địa (Trong cục năm và tháng gặp hành hỏa) - Phương hiển công danh phú quý nhân (Mới có công danh và hưởng phú quý) - Giáp Kỷ can đầu sinh ngộ xuân (Giáp hợp Kỷ mà sinh về mùa xuân) - Bình sinh tác sự mạn lao thần (Suốt đời làm việc phải lao tâm khổ trí) - Hữu ban lộng xảo phảm thành quyết (Mọi việc làm khó hóa ra vụng) - Cô khổ hình đinh tẩu bất đình 204 (Suốt đời lênh đênh cơ khổ, chậm chạp không dừng) 3/ Ất hóa theo Can, khí thuộc tây phương (hóa Kim) Gặp Bính thì gian nan, gặp Nhâm thì vinh hiển, gặp Đinh hỏa đương quyền đẹp như hoa xuân đón mặt trời. Gặp Tân Kim chẳng khác có thu gặp sương. Gặp được Kỷ thời đầy nhà vàng ngọc, riêng gặp chữ Giáp thời thóc lúa đầy nhà. Ngày qua tháng lại gian nan, cũng bởi can thân làm loạn (Mậu thổ), giờ khắc vất vả cũng do Huyền Vũ làm càn (Quý Thủy). 4/ Canh hóa theo Ất, chất kim càng cứng, rất kỵ gặp Tân Kim ám hại, lại sợ Bính Hỏa đốt cháy. Gặp Đinh là Quan tinh như giao long gặp mây mưa. Gặp Kỷ Mão thì xấu – quý thủy vượng thời cửa nhà trôi nổi, Nhâm thủy thịnh thời tài lộc tăng đến, gặp Mậu xâm phạm thời khó giàu lớn, được Nhâm trợ lực thì đầy hỏa. Sau đây là thơ tẩy vịnh về Canh hợp Ất, Ất hợp Canh - Nhị canh tối phạ Hỏa viên thương (Hai canh rất sợ hỏa thương khắc) - Chí khí tiêu ma phản bất lương (Chí khí tiêu ma trở thành không tốt) - Dần Ngọ trùng phùng vi hạ cách (Lại gặp thêm cả Dần Ngọ là hạ cách) - Hoàn thiên bôn tẩu tốt vô thường (Lại thiên bôn tẩu trọn đời không yên) 5/ Bính là Dương hỏa gặp Tân thời hóa thủy, gặp Mậu thổ là có phước, gặp Ất thời nên 205 danh, thăng quan tiến chức, gặp Quý Tỵ thời nhà cửa hiển đạt. Phát triển ở Canh Dần, bạo phát ở Giáp Ngọ, họa bại ở Nhâm Thân. Gặp âm hỏa đinh, dù giàu sang không được lâu bền. Gặp nhiều Kỷ Thổ, vinh hoa giống như mây nổi. Thủy lấy hỏa làm tài, lấy thổ làm quan, nếu trùng kiến thời tất có tai họa. 6/ Tân gặp Bính hỏa thủy, trong tứ trụ có Mậu rất tốt, gặp Canh cũng hay, gặp Kỷ thời ngày nào mới phát phúc, gặp Nhâm thời ngày nào mới thành danh. Quý thủy vượng tuy khốn nhưng không khốn, Giáp mộc vượng tuy vinh mà không vinh. Được phú quý vinh hoa là nhờ gặp Ất, thương tàn cùng khổ là do gặp Đinh. Thơ tổng luận về Bính hợp Tân, Tân hợp Bính: - Bính Tân hóa thủy sinh đảng nguyệt. (Bính Tân hóa thủy sinh về tháng mùa Đông) - Âm nhật kiến thời tu hữu thanh (Ngày âm gặp giờ âm thời được thanh cao) - Hữu thổ cục trung tu phá dụng (Trong cục có thổ thời phá hại) - Đắc kim tương trợ phát tiền trình (Được Kim giúp đỡ thời tương lai sáng sủa). 7/ Đinh là âm hỏa gặp Nhâm dương thủy hóa thành mộc, gặp Bính thời trọn đời an lạc, gặp Tân thì an nhàn, được phú quý song toàn là nhờ có Giáp, có công danh phong tặng là nhờ gặp Kỷ. Cuộc sống nghèo nàn là do Mậu, sinh kế đạm bạc là do Kỷ, gặp nhiều Ất mộc thời tài lộc yếu kém. Gặp Canh Kim thời đừng hy vọng công danh. 206 8/ Nhâm hóa theo Đinh, trí khí ở phương Đông, gặp Giáp thời có kẻ hầu người hạ, gặp Tân nhiều nhà nhiều đất, gặp Bính hỏa thời là kẻ anh hùng hào kiệt, gặp Quý thủy thời buôn bán vất vả nay đây mai đó. Được đeo ấn cưỡi xe là do Kỷ gặp Lâm quan, phiêu lưu đây đó, là do Mậu gặp sát. Đầu bạc vẫn vất vả là do Canh Kim quá vượng. Tuổi xanh lận đận là do Ất cuộc tác họa. 9/ Mậu hợp với Quý hóa Hỏa, gặp Ất thời hiển đạt, gặp Nhâm thời tiền tài sung túc. Được giàu sang là nhờ Đinh gặp Tỵ, cha mẹ anh em không hòa thuận là do Giáp Dần. Bính hỏa quá mạnh thời khó có phúc lộc, canh vượng thời hanh thông. Kỷ vượng thời tổn tài thông thương gặp Tân mạnh thì làm khéo hóa vụng. 10/ Quý theo Mậu hợp hóa hỏa, gặp Bính, Tân, thời cuộc đời gặp nhiều thành bại, gặp Giáp Kỷ thì trọn đời lao đao. Gặp Đinh hỏa thì thóc lúa đầy kho. Ruộng tiền súc tích là nhờ ở Canh Kim. Được thăng quan tiến tước, là do gặp Ất, giàu lại sang là gặp Nhâm. Tiền tài khi được khi mất là do Tân quá vượng. Đường công danh lận đận là do Kỷ Thổ xâm phá. Thơ tổng luận về Mậu hợp Quý, Quý hợp Mậu: - Mậu quý nam phương hỏa diệu cao (Mậu Quý thuộc nam phương, lửa bốc nghi ngút) - Đằng quang chiến thượng hiển anh hào (Rực sáng chiếu lên tỏ mặt anh hào) - Cục trung vô thủy thương niên nguyệt (Trong cục không có thủy thương khắc năm tháng) - Hiếu phú Long môn đoạt cẩm bào (Dâng bái phú trước bệ rồng, đoạt áo cẩm bào) 207 - Thiếu niên Mậu Quý chi tàng thủy (Thiên nguyên là Mậu Quý mà có chi là Hợi Tý) - Bại phá môn đình sự cánh đa (Phá bại nhà cửa, nhiều chuyện rắc rối) - Hành vận cách phùng sinh vượng địa (Hành vận gặp thủy sinh vượng) - Thương thê khắc tử khởi phong ba (Hại vợ hại con, gia đình gặp sóng gió) Thần thú bát pháp Loại - Thuộc – Tòng – Hóa - Phảm - Chiếu - Quỷ - Phục – Pháp xem Tử Bình cần nhất và trước hết phải xem tám cách đặc biệt. Ở đây cần giải thích về nghĩa chữ Thú để có một ý niệm về cách này. Thú có nghĩa là bỏ vị trí mình đứng bước tới một đối tượng mà mình nhắc tơớ. Về nghĩa bóng là bỏ chỗ này qua chỗ khác có lợi hơn. Như chữ Thú lợi là nhanh chân kiếm lời. Vậy Thần thú có nghĩa là Thần (Hành) bước tới chỗ khác, theo hành khác mới có lợi. Thần thú có 2 phép là loại tượng, Tòng tượng, thuộc tượng, hóa tượng, phản tượng, chiếu tượng, quỷ tượng, phục tượng. 1/ Loại tượng là Thiên Can, địa chi đều đồng loại, như người sinh vào mùa xuân, Thiên can là Giáp Ất, Địa chi có đầy đủ Dần Mão Thìn không bị gián đoạn phá hoại như vậy là chiếm đoạt được cả tú khí của phương đông, nhưng rất kỵ có tử tuyệt xuất hiện ở cột giờ, như vậy là tứ khí bị phá. Vận gặp tử tuyệt thời xấu. Nếu cột giờ cột năm gặp sinh 208 vượng thời tú khí càng tăng, mười phần tốt đẹp. 2/ Thuộc tượng là Thiên can thuộc Giáp, Ất mà địa chi được Dần Mão Mùi đầy đủ. 3/ Tòng tượng là Nhật can Giáp Ất hoàn toàn thiếu cỗi rễ (thiếu hành mộc) mà địa chi toàn là hành kim, thời gọi là tòng kim, toàn là hành thổ thì gọi là Tòng thổ, Tứ trụ toàn là hành thủy gọi là Tòng thủy, tứ trụ thuần hỏa gọi là Tòng hỏa. Nói tóm lại có tú khí mới tốt, không có tú khí là xấu. Nếu Thiên can có chữ Giáp, Kỷ hoặc có cỗi rễ đều không tốt. Riêng về thủy hỏa cách, hỏa vượng thời tốt, gặp tử tuyệt thì rất nguy. 4/ Hóa tượng là người sinh nhằm ngày Giáp Ất nhằm 4 tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, Thiên cơ có một chữ Kỷ, Kỷ hợp Giáp, gọi là Giáp Kỷ hóa thổ, gặp hỏa vận thời rất tốt, nếu gặp vận Giáp Ất mộc sinh vượng thời không thành hóa và không tốt. Có một chữ Kỷ mà lộ ra 2 Giáp gọi là tranh hợp, nếu lộ ra 1 chữ Ất gọi là Đố hợp, đều là phá cách. 5/ Chiếu tượng là sinh ngày Bính có Tỵ Ngọ Mùi, trên cột giờ có một chữ Mão, gọi là Mộc hỏa tượng chiếu, rất tốt cũng như sinh ngày Nhâm hay Quý có Thân Tý Thìn toàn thuộc tượng. Trên cột giờ có 1 hành thuộc Kim đó gọi là Kim thủy tương chiếu, đặt cách. Ngoài ra, được Nhâm can chiếu cũng tốt. 6/ Phàm tượng là Dụng thần ở Nguyệt lệnh gặp Tuyệt, ở cột giờ, Tử Bình gọi đó là Dung chi bất dụng đều là nghịch vận, nếu tương phản quá nặng thời rất xấu. 7/ Quỷ tượng ngày Giáp Ất sinh vào mùa thu, 4 địa chi trong tứ trụ toàn kim. Quỷ vận cần gặp sinh vượng vận mới tốt, rất ngại vận gặp tử tuyệt, mà thân lại vượng thời không tốt. 8/ Phụ tượng là sinh ngày Nhâm nhằm tháng 5, địa chi gồm đủ Dần Ngọ Tuất tam hợp mà Thiên can không lộ ra chữ Đinh, Nhâm thủy vô căn, lại lấy chữ Đinh nằm trong chữ Ngọ hợp với chữ Nhâm, đó gọi là Phụ tượng, vận gặp Mộc hỏa đều tốt, rất kỵ thủy vận vượng thời bất lợi. Phép xem Tử Bình bát tự trước hết phải coi Tòng hóa trước hết, tòng hóa không thành mới luận tài quan, tài quan không lấy mới luận đến cách cục. Nếu tòng hóa thành cục 209 thời trọn đời phú quý. Luận về cách cục: Ở phần trên đã nói rõ từng cách cục, đoạn này chỉ tóm tắt những điểm lợi hại chính yếu để giúp độc giả dễ nhớ. - Ấn thụ cách rất kỵ gặp tài, vận hành gặp tài, thân mệnh kiêm tử tuyệt thì khó sống, nếu nguyên cục có tỷ kiên thời có thể cứu giải tai họa, vì nhờ tỷ kiêm khắc chế ảnh hưởng của tài, không còn tác dụng để phá Ấn. Nếu không rất nguy hiểm đến tính mạng. - Chính quan cách gặp sát lại bị Thương quan hình xung phá hại, thêm tuế vận xung phá tất chết. - Chính tài thiên tài cách vận gặp tỷ kiên, tài bị phân đoạt, nhất là kiếp tài hội với Dương Nhậm, gặp tuế vận xung hay hợp thời lâm nguy. - Thương quan cách nếu tài vượng thân nhược quan sát nhiều và hỗn tạp, xung Dương Nhận lại gặp Tuế vận hung thời chết, nếu không châu thổ cũng bị thương tàn. - Củng lộc cũng quý cách gặp điều thực lại gặp quan không vong xung Dương Nhận, Tuế vận lại gặp thời chết. - Nhật lộc quy thời cách bị hình xung phá hại lại gặp Thất sát, quan tinh gặp không vong, Dương nhận xung tất là mạng vong. - Thiên quan chính quan cách rất kỵ quan gặp sát nếu tuế vận lại gặp quan hay sát cũng dễ mạng vong. Nói chung, các cách khác rất kỵ sát và điền thực, tuế vận cũng gặp Sát và Điền thực thời khó sống. Cũng cần lưu ý đến hung thần ác sát như câu giao không vong, điếu khách, mộ, bệnh, tử, tuyệt, như vậy số đến ngày thập tử nhất sinh. Vận gặp quan tinh Thái tuế, tài nhiều mà thân nhược, nguyên cục bị Thất sát xâm phạm, cần được cứu giải thời tốt, không được cứu giải thời nguy. 210 Ngoài ra nên để ý về ngũ hành: kim nhiều thời yểu chiết, thủy nhiều thời trôi nổi, Thổ nhiều thời si ngốc. Hỏa nhiều thời hung dữ. Ngũ hành thái quá hay bất cập cũng giải đoán theo ý nghĩa trên. Việc quyết đoán sinh tử trên chỉ nêu ra nguyên tắc chung, không nên chấp nhất phải suy đi xét lại, những điều sinh khắc chế hóa cho tinh tường mới mang ứng nghiệm. Riêng về Củng Lộc củng quý cách nếu trong tứ trụ có cả quan tinh nếu thời là số không có công danh, có cả quan tinh và bị điền thực thời số nghèo hèn, nếu gặp quan vận kiên phùng ác sát thời chắc chắn là chết. Đoạn chót của bài này có nói về ngũ hành thái quá và bất cập tức là nói về Tòng hóa cách. Nếu tòng hóa mà thành cục thời quý hiển, trừ phi hóa không thành cục mới đoán là hung. Luận về chinh Thái tuế Trong phần trước, đã có đề cập đến ảnh hưởng của Thái tuế. Chữ Chinh ở đây có 2 nghĩa: 1). Chinh có nghĩa là hai vua tượng trưng cho hai nước đánh nhau và không thể giảng nào được, thẳng thì tốt không thẳng thì xấu. Đó là điều cần suy đoán công việc trong một năm, Kinh có câu, Thái tuế nhập mệnh chưa hãm là xấu, nếu gặp cảnh chiến đấu tất bản mệnh mới bị hình thương. 2/ Nghĩa thứ hai rất quan trọng cần phải lưu tâm. Chinh có nghĩa là chiến đấu xúc phạm, như bày tôi phạm vua, kẻ dưới xúc phạm người trên. Can chi ngày sinh xung khắc với Thái Tuế cũng gọi là Chinh. Can chi của vận xung khắc Thái tuế cũng là Chinh. Can chi của Thái tuế xung khắc can chi của ngày sinh cũng gọi là Chinh.

Không có nhận xét nào

Được tạo bởi Blogger.